Tri ân, chuyện tháng Bảy-Bài 3: Cổ tích thương binh nặng và cô cấp dưỡng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Trong một chuyến công tác tại Bắc Giang cách đây hai năm, tôi được nghe câu chuyện tình yêu của thương binh nặng Nguyễn Văn Quang và cô cấp dưỡng đầy hạnh phúc. Khi đó, hôn lễ của hai người được vị Giám đốc Trung tâm Điều dưỡng Người có công tỉnh Bắc Giang đứng ra tổ chức. Nay, chúng tôi mới có dịp tìm về nghe câu chuyện tình đẹp như cổ tích này.
Những đau thương thời trai trẻ
Năm 1978, anh thanh niên Nguyễn Văn Quang (SN 1958) quê ở huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường nhập ngũ. “Lúc xung phong ra trận tôi chỉ tâm niệm một điều: Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, sớm hoàn thành nhiệm vụ rồi trở về quê hương”, ông Quang nhớ lại.
Ông Quang được biên chế vào Sư đoàn 322 thuộc QK1, tham gia bảo vệ biên giới tại Trà Lĩnh (tỉnh Cao Bằng). Sau một năm chiến đấu, trong lúc làm nhiệm vụ, chuyến xe chở 8 người trong tiểu đội của anh đè vào mìn chống tăng. “Tôi bất tỉnh, được đưa về bệnh xá, 8 ngày sau mới tỉnh. Hai đồng đội hi sinh, tôi bị thương nặng nhất, may mắn sống sót. Khi tỉnh lại thương tích đầy người, xung quanh tôi một màu tối đen”, ông Quang kể lại.
Sau đó, ông được đưa đi khắp các bệnh viện chữa trị và vĩnh viễn mất đi đôi mắt. Sau khi vết thương ổn định, ông được đưa về Đoàn An dưỡng 157 ở Bắc Ninh hơn 3 năm, rồi về Trung tâm điều dưỡng Thương binh Thuận Thành. Đến năm 1991, với mức thương tật 94%, ông được đưa về Trung tâm Điều dưỡng Người có công tỉnh Bắc Giang (Trung tâm) cho đến nay.
 
Ảnh lễ cưới vợ chồng thương binh Nguyễn Văn Quang
Ảnh lễ cưới vợ chồng thương binh Nguyễn Văn Quang
Nhưng rồi, cuộc đời run rủi, năm 1987, qua người chú giới thiệu, ông yêu rồi xây dựng gia đình với cô thôn nữ cùng quê. Sau đó, ba người con trai của ông lần lượt ra đời, càng lớn càng khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Trong gian nhà nhỏ của hai vợ chồng, mình ông ở nhà chăm nuôi, rèn giũa con, dành thời gian cho vợ tần tảo ruộng nương, chợ búa kiếm tiền lo ăn học cho con. Cuộc sống đang suôn sẻ, hạnh phúc thì người vợ lại mắc bệnh trọng. Suốt bốn năm trời, ông vừa chạy chữa cho vợ, lại lo cho các con ăn học. Năm 2017, vợ ông qua đời.
“Vợ tôi mất, bốn bố con mồ côi. Con trai lớn vừa học xong, đứa bé còn đang học cấp 3, nhà không có phụ nữ, trống vắng lắm. Tôi ở nhà một mình hơn 1 năm trời. Rồi chị Liên (GĐ Trung tâm) trong một lần ghé thăm, chứng kiến cảnh ở một mình côi cút, điện đóm không an toàn nên mời tôi xuống Trung tâm ở, để có người chăm sóc”, ông Quang kể và cho biết cả ba con trai của anh đều học hành chăm chỉ, ngoan ngoãn, biết yêu thương, chăm sóc bố và tháo vát việc nhà. Đến nay, con trai lớn trúng tuyển biên chế làm ở Ban Quản lý Bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử; con thứ hai làm điều dưỡng Bệnh viện Đa khoa tỉnh; còn cậu út vừa học xong Đại học Nông - Lâm Bắc Giang.
Khát vọng hạnh phúc
Hôm nay, ông Quang đón tiếp chúng tôi trong trang phục khá trẻ trung với kính râm và chiếc áo phông thời trang. Ông có dáng người thanh thoát, khỏe khoắn, chân tay sạm đen, rắn chắc. Nhìn từ xa khi đeo cặp kinh râm, ông trẻ trung hơn nhiều so với tuổi 65. Khi chúng tôi đang dở câu chuyện thì chị Liên, vợ ông, là cán bộ cấp dưỡng ở Trung tâm đi chợ về. Chị Liên sinh năm 1979, dáng người nhỏ nhắn, dịu dàng, có khuôn mặt ưu nhìn.
 
Vợ chồng thương binh Nguyễn Văn Quang
Vợ chồng thương binh Nguyễn Văn Quang
Giới thiệu đôi chút về vợ, ông Quang kể tiếp: “Đầu năm 2020, con trai thứ hai cưới vợ. Một mình xoay xở, nhờ người thân lo công việc chu toàn nhưng không có vợ, các con không có mẹ nên thiệt thòi. Sau đó, một người bạn giới thiệu một người đồng trang lứa để có người chăm sóc nhưng các cháu không ưng nên tôi dừng lại”.
Có mặt cùng chúng tôi, Giám đốc Trung tâm Nguyễn Thị Kim Liên chia sẻ, bản thân chị được anh Quang coi như người thân trong gia đình nên thấy anh một mình côi cút ở nhà thì không yên tâm. Người bình thường đau yếu, trái gió trở trời nhưng mắt còn sáng, còn nhìn thấy, đỡ cực; đằng này anh Quang phải chịu đựng tất cả, mà vợ không có, con đi học, đi làm xa, cứ lủi thủi một mình, rất tội. Ở Trung tâm lại có cô cấp dưỡng cũng tên là Liên hoàn cảnh riêng khá éo le. Liên ly hôn khi con gái mới vài tháng tuổi, hơn 10 năm nay ở vậy chăm con. Liên tính cách hiền lành, nhẹ nhàng, ít nói, nấu ăn ngon và rất khéo chăm thương binh, ai cũng quý. Cô và anh Quang, cả hai đều thương mến nhau nhưng chỉ dừng ở tình cảm anh em, người một nhà ở Trung tâm.
“Ngoài trách nhiệm, hoàn cảnh, tình cảm gia đình tôi nảy ra ý định kết duyên cho hai người thành một gia đình gia đình. Mặc dù, ở Trung tâm anh Quang có người chăm sóc nhưng như thế cũng không bằng vợ chồng chăm nhau. Thế rồi tôi gặp riêng em Liên, gặp riêng anh Quang nói chuyện, chia sẻ. Sau đó hai người yêu nhau từ lúc nào không biết”, chị Liên kể và cho biết, chị cũng nói chuyện với các con của anh Quang. Sau đó, các cháu hoàn toàn ủng hộ.
Trung tâm Điều dưỡng Người có công tỉnh Bắc Giang quản lý, nuôi dưỡng, điều trị Thương bệnh binh nặng, mất sức 81% trở lên của 4 tỉnh phía Bắc gồm Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương. Ngoài ra, Trung tâm còn điều dưỡng luân phiên tập trung cho 1.802 đối tượng là người có công với cách mạng của tỉnh.
Cả hai đã quen nhau hơn chục năm, đều hiểu rõ hoàn cảnh, tâm tính của nhau, đặc biệt được các con ủng hộ, lại cả Trung tâm vun vào, đám cưới của anh thương binh nặng và cô cấp dưỡng đã diễn ra sau đó, ngay tại Trung tâm Điều dưỡng. “Anh Quang được nuôi dưỡng tại Trung tâm, em Liên lại là cán bộ của Trung tâm nên tôi muốn đứng ra tổ chức ở đây với mong muốn Trung tâm như là một mãi nhà chung”, chị Liên nói rồi kể tiếp, hôn lễ được tổ chức ở hội trường, tất cả cán bộ Trung tâm, quan viên hai họ đều đến dự. Bạn bè, cán bộ lãnh đạo Trung tâm ai cũng xung phong lên hát. Thương binh người ngồi xe lăn, người chống nạng gỗ đến cổ vũ, chung vui cùng cô dâu chú rể.
Ngồi gần đó nghe chuyện, chị Liên, vợ anh Quang thỉnh thoảng má ửng đỏ vì mọi người nhắc đến mình. Khi mọi người ngừng chuyện, chị chia sẻ, đã để ý đến anh Quang từ mấy năm trước. “Ban đầu hơi ngại vì sợ khoảng cách về tuổi tác. Sau mọi người trong Trung tâm hùn vào nên tôi đồng ý. Giờ về ở với nhau mới biết một điều chưa được, đó là … lo cho vợ, cho con quá!”, chị Liên thổ lộ và cho biết, cuộc sống rất hạnh phúc. Các con anh chị đều ủng hộ cuộc hôn nhân nên cả hai dòng họ đều chấp nhận, yêu quý.
(Còn nữa)
Theo Đức Anh (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Tôi là du kích Ba Tơ...

Tôi là du kích Ba Tơ...

“Cả đời cống hiến cho cách mạng, trải qua nhiều chức vụ, nhưng điều tôi tự hào nhất là mình từng là đội viên Đội Du kích Ba Tơ”. Đó là tâm sự của Đại tá Thân Hoạt, năm nay 98 tuổi đời, 80 tuổi Đảng, người con của quê hương Quảng Ngãi.

Người của bách khoa

Người của bách khoa

Thật ra sáu mươi không chỉ là mốc quy ước để có tuổi hưu trí mà còn là tuổi của “nhi nhĩ thuận” (tai đã nghe đủ chuyện đời nên giờ là lúc biết lẽ thuận, nghịch), GS Trần Văn Nam là người nhi nhĩ thuận đã mấy năm rồi.

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

Lão xà ích và đàn ngựa trên cao nguyên

(GLO)- Hơn 30 năm cầm cương, ông Phan Xuân Định (SN 1966, thôn Đồng Bằng, xã Biển Hồ, TP. Pleiku) vẫn luôn nhớ về những ngày tháng rong ruổi cùng tiếng vó ngựa trên cao nguyên. Lão xà ích ấy vẫn âm thầm nuôi dưỡng đàn ngựa để thỏa chí tang bồng và giữ cho phố núi Pleiku nét riêng độc đáo.

Như núi, như rừng

Như núi, như rừng

Trong dòng chảy lịch sử của Kon Tum, qua biết bao thăng trầm, mỗi vùng đất nơi đây đều gắn với những chiến công oai hùng, với những con người mà cuộc đời của họ đã trở thành huyền thoại. Một trong số đó là ông Sô Lây Tăng- người vừa đi vào cõi vĩnh hằng.

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Tết rừng, mĩ tục của người Mông

Đối với người Mông xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, lễ cúng rừng (Tết rừng) có từ khi tổ tiên ngàn đời di cư đến đây lập làng, lập bản và trở thành sắc thái văn hóa, tín ngưỡng dân gian độc đáo riêng của người Mông nơi đây.

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Món quà tiên trên đỉnh Hô Tra

Chục cây số đường rừng, từ cao độ 1.500 m lên 2.500 m nhưng mất hơn 5 giờ chúng tôi mới đến nơi đang lưu giữ món quà tiên của bản Hô Tra (H.Tân Uyên, Lai Châu), chính là vạt rừng trà cổ thụ búp tím đang mùa vụ.