Trang phục, đạo cụ văn nghệ thời gian khó

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Ngày nay, chúng ta có cả một hệ thống các cửa hàng phục vụ trang phục, đạo cụ cho các hoạt động văn hóa, du lịch, muốn gì cũng sẵn. Nhưng từ thập niên 80 trở về trước thì tất cả đều tự túc. Vì thế mà có nhiều chuyện rất vui.
Một tiết mục biểu diễn của ca sĩ Ái Vân (phải) và Phương Thư hơn 30 năm trước - Ảnh: T.L/TNO

Một tiết mục biểu diễn của ca sĩ Ái Vân (phải) và Phương Thư hơn 30 năm trước - Ảnh: T.L/TNO

Dường như ở thời buổi khó khăn ấy, cái gì người ta cũng quý. Không chỉ là mảnh vải, tấm áo, ký gạo, mớ rau... trọng nghĩa, trọng tình mà tất cả những gì làm phong phú thêm đời sống tinh thần như quyển sách hay, bài hát mới… đều được trân trọng, nâng niu.

Và, như để bù đắp cho cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, ngày ấy, hoạt động văn nghệ quần chúng diễn ra ở mọi nơi, mọi cấp độ: từ trường học đến nông trường, nhà máy; từ buôn làng đến xã, huyện, tỉnh. Sôi nổi nhất là vào những dịp kỷ niệm như ngày thành lập Đảng, sinh nhật Bác, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày Quốc khánh...

Ban ngày, mọi người bận học, bận làm. Ban đêm, tiếng í ới gọi nhau đi tập văn nghệ rộn lên, cùng tiếng chó sủa, tiếng đuốc lồ ô cháy tí tách, ánh sáng bập bùng náo nhiệt cả đường làng, ngõ xóm, góc phố. Đám trẻ con như chúng tôi, luôn bị cha mẹ răn đe: “Cứ văn nghệ văn gừng cho lắm vào, mà học hành không ra gì thì liệu hồn!”.

Văn nghệ thời ấy, bên cạnh việc hát, múa các bài đã nổi tiếng của các nhạc sĩ, biên đạo chuyên nghiệp, thì không thể thiếu những tiết mục tự biên tự diễn. Hầu như ở nơi nào cũng có những biên đạo, biên kịch… nghiệp dư nổi tiếng cả một vùng, một làng, một nông trường, một khu phố. Kịch thời ấy không chỉ có kịch nói, mà còn cả chèo, cải lương; hát cũng không chỉ là ca nhạc mà còn có cả vọng cổ; múa thì đủ sắc thái vùng miền.

Vì vậy, trang phục, đạo cụ cũng phải thật phong phú mới đáp ứng được thị hiếu. Ví dụ, muốn hát “Trước ngày hội bắn” thì ngoài bộ trang phục của chàng trai, cô gái vùng cao, còn phải đẽo thêm súng gỗ; hát “Bài ca thống nhất” thì phải có áo bà ba, nón để múa phụ họa; múa “Chàm Rông” thì phải có váy áo gần giống Champa, quạt đỏ, quạt xanh; “Múa sạp” phải có những thanh tre được quấn giấy màu… còn trang phục, đạo cụ cho các vở kịch tự biên thì không biết đâu mà kể.

Nhiệm vụ khó nhất của một đội văn nghệ không phải là việc tìm một bài hát, sáng tác một vở kịch cho hợp với chủ đề, một bài múa, hay luyện tập…, mà là làm sao để có trang phục, đạo cụ phù hợp cho từng tiết mục, thật nổi dưới ánh sáng sân khấu.

Gần đến ngày diễn, đội trưởng và các thành viên phải vận hết công lực, lục tung trong trí nhớ xem nhà nào có gì để mượn, kiểu như: “Em biết nhà ông A có bộ quần áo công an, nhưng ông này khó lắm, may ra anh H. đến thì ông ấy mới cho mượn”. “Tôi biết nhà ông B. có bộ bà ba mới”. “Chị biết nhà ông C. có bộ đồ bộ đội”. “Cái N. vừa được mẹ mua cho cái váy giống công chúa lắm”…

Sau khi mượn về, lại phải thử xem cái nào vừa với ai, cái nào phải bóp vào, cái nào phải lên lai.

Bên cạnh những thứ có thể mượn, còn những gì không có sẵn trong đời sống hàng ngày thì phải nghĩ cách mà làm. Mất công nhất, nhưng cũng vui nhất là việc làm (chứ không phải may) váy, áo của các dân tộc thiểu số (thường là của đồng bào Jrai, Bahnar, Ê Đê, Thái, Mông)...

Nhưng để có thể làm ra váy, thì nguyên vật liệu đầu tiên cần đến cũng là những thứ không thể mua được lúc ấy, mà phải huy động từ gia đình các “diễn viên”, phải mượn, bởi nó là những tấm khăn vuông, những mảnh vải mới... không sẵn ngoài thị trường. Sau khi mượn về, khăn được khâu (tay) hai mép cho kín lại, phía trên khâu chỗ luồn dây thun.

Vất vả nhất là công đoạn dùng giấy thủ công xanh, đỏ, tím, vàng để cắt dải, cắt hoa, tạo họa tiết dán lên váy áo cho màu mè, bắt mắt. Công đoạn này cũng đòi hỏi phải thật khéo tay, chứ xong việc, để lại dấu tích trên các “tài sản” của người ta là lại mất công đùn đẩy nhau đi trả. Lo xong trang phục thì đến đạo cụ.

Những thứ có thể mượn được như quang gánh, cối chày… thì mượn về rồi trang trí lên. Những thứ không thể có để mượn như khẩu súng, cây kiếm… thì phải phân công nhau tự đẽo, tự gọt.

Kể ra như thế để thấy, có được một tiết mục văn nghệ trình diễn trong 3-5 phút, các đội văn nghệ thời ấy phải vận rất nhiều “trí lực”. Những đêm văn nghệ một thời cũng rộn ràng chẳng kém gì hội làng. Các gia đình nấu cơm sớm, đám trẻ con cũng phải đi sớm để giành chỗ ngồi tốt. Mỗi tiết mục diễn xong, diễn viên đi xuống trong tiếng vỗ tay ào ào, tiếng cổ vũ không dứt.

Có thể bạn quan tâm

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

(GLO)- Bài thơ "Di vật đời người" của Phạm Đức Long là khúc tưởng niệm thấm đẫm cảm xúc về những người lính đã hi sinh trong chiến tranh. Họ ngã xuống giữa rừng xanh, để lại những di vật bình dị mà thiêng liêng, là biểu tượng bất tử của một thời tuổi trẻ quên mình vì Tổ quốc...

Tháng năm nhớ Người

Tháng năm nhớ Người

(GLO)- Bài thơ “Tháng năm nhớ Người” của Lenguyen khắc họa hình ảnh Bác Hồ qua ký ức làng quê, tình mẹ, giọt lệ, hương sen và ánh nắng Nam Đàn,... như lời tri ân sâu lắng dành cho vị Cha già kính yêu của dân tộc suốt đời vì dân, vì nước.

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

(GLO)- Từ ngày 16 đến 20-5, gần 40 ca sĩ, diễn viên, nghệ nhân Gia Lai đã tham gia 2 sự kiện vô cùng ý nghĩa tại tỉnh Nghệ An. Đó là hội diễn nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát Làng Sen” và triển lãm “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” năm 2025.

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

(GLO)- “Mây biên giới” của tác giả Đào An Duyên là bài thơ giàu cảm xúc về vẻ đẹp thanh bình nơi biên cương Tổ quốc. Tác giả khắc họa hình ảnh cột mốc trong nắng dịu, mây trời không lằn ranh, rừng khộp lặng im... như một bản hòa ca của thiên nhiên và lịch sử...

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.