Tiết lộ lá thư gửi hậu thế ở thủy điện Hòa Bình (phần 1)

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Cho đến nay, bức thư cũng như một số chi tiết về công trình này vẫn còn nhiều bí ẩn.
31 năm đã trôi qua kể từ ngày công bố và tiến hành cất giữ lá thư gửi hậu thế tại công trình thủy điện Hòa Bình trên sông Đà. Cho đến nay, bức thư cũng như một số chi tiết về công trình này vẫn còn nhiều bí ẩn.
Câu chuyện của ông Đỗ Xuân Duy, nguyên Trưởng ban phiên dịch cho chuyên gia cơ giới kiêm thư ký của ông Phan Ngọc Tường (Thứ trưởng Bộ Xây dựng trực tiếp làm Tổng Giám đốc Tổng Công ty xây dựng thủy điện Hòa Bình), đồng thời cũng là người gắn bó với công trình này từ những ngày đầu tiên sẽ gợi mở giúp độc giả phần nào về những bí ẩn ấy.
Người biển Đen đến... sông Đen
Ông Duy nhớ lại, khoảng đầu những năm 70 của thế kỷ trước, Nhà nước ta đã bắt đầu tiến hành việc chuẩn bị triển khai xây dựng một nhà máy thủy điện lớn trên dòng sông Đà. Khi ấy, nhiệm vụ khảo sát, nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch được giao cho Bộ Thủy lợi và sau đó là Ban công tác Sông Đà trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, do ông Hà Kế Tấn - Bộ trưởng Bộ Thủy lợi làm Trưởng ban.
Cũng trong năm 1971, các chuyên gia Liên Xô bắt đầu được cử sang Việt Nam để cùng tiến hành khảo sát, thiết kế và chuẩn bị thi công xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình. Là người am tường tiếng Nga, ông Duy được giao nhiệm vụ phiên dịch. Do đó, mọi công tác từ chuẩn bị đến việc xây dựng, khánh thành công trình này, ông Duy nắm khá rõ.
Ông kể, khi tiến hành khảo sát, các chuyên gia Liên Xô có tham khảo tài liệu địa chất và thủy văn của người Pháp để lại. Chính vì thế mà họ đã gọi sông Đà là sông Đen (do dịch tên con sông này từ tiếng Pháp, bởi vào mùa lũ, sông vô cùng hung dữ và gây nhiều thảm họa cho dân cư và mùa màng dưới hạ lưu). "Việc các chuyên gia Liên Xô sang làm việc ở sông Đà gợi lên hình tượng thú vị là những người từ biển Đen (Tri-ô-rơ-nôi-e Mô-ri-e) đến chinh phục dòng sông Đen (Tri-ô-rơ-nai-a Re-ka)", ông Duy hóm hỉnh ví von.
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
Ý tưởng về Thủy điện Sơn Lacó từ 1971 - 1972
Các chuyên gia địa chất, thủy văn Việt Nam và Liên Xô đã thực hiện nhiều chuyến đi dọc sông từ Hòa Bình - Sơn La - Lai Châu cả bằng đường bộ, đường thủy và đường không (máy bay trực thăng).
"Yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để quyết định xây dựng nhà máy thủy điện là lựa chọn tuyến đập mà điều kiện địa chất, địa hình ít phức tạp và đáp ứng được các điều kiện thi công thuận lợi nhất. Những đoạn sông hẹp nhất và không sâu lắm thường được lựa chọn để làm tuyến đập. Kết quả khảo sát đã nêu ra rằng trên dòng sông Đà có khả năng thiết lập 3 bậc thang thủy điện (3 nhà máy thủy điện). Tính theo hướng Bắc - Nam, trên cùng là thủy điện Lai Châu, sau đó đến thủy điện Sơn La và thấp nhất là thủy điện Hòa Bình.
Tuy nhiên, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố chủ quan và khách quan đã đi đến quyết định: Sẽ tiến hành xây dựng thủy điện ở Hòa Bình trước tiên. Lý do vì Hòa Bình chỉ cách Hà Nội chừng 70km. Quá trình vận chuyển thuận lợi hơn cả vì các vật tư, thiết bị, máy móc thi công để xây dựng nhà máy thủy điện thường là siêu trường siêu trọng, sau khi cập cảng Hải Phòng sẽ được kéo dọc sông Hồng rồi ngược lên Trung Hà (Sơn Tây), chuyển sang sông Đà để đưa lên Hòa Bình. Việc vận chuyển phần lớn bằng sà lan theo đường thủy sẽ rất thuận lợi thay vì bằng đường bộ.
Ngày 2/9/1972, tại bản Tháu - một địa điểm nằm trên tuyến đập đã được xác định, mũi khoan thăm dò đầu tiên đã cắm sâu vào lòng đất, là dấu mốc quan trọng của việc bắt đầu xây dựng một Công trình Thế kỷ - Nhà máy Thủy điện Hòa Bình trên sông Đà", ông Duy cho hay.
Khi bài viết này được đăng tải thì Nhà máy thủy điện Sơn La - bậc thang thủy điện thứ 2 do cán bộ kỹ sư và công nhân Việt Nam đảm nhiệm hoàn toàn việc thiết kế, thi công đã hoàn thành. Nhưng "công trình này đã được lên ý tưởng từ những năm 1971 - 1972 chứ không phải xong Hòa Bình mới tính đến Sơn La", ông Duy tiết lộ.
Ngày 6/11/1979, công trình thủy điện Hòa Bình được chính thức khởi công xây dựng. "Sở dĩ chọn ngày này vì hôm sau kỷ niệm 62 năm Cách mạng Tháng Mười Nga. Nhân dịp ấy, đoàn đại biểu cấp cao của Liên Xô sang thăm và tham dự mít tinh kỷ niệm ở Việt Nam. Do đó, chúng ta đã quyết định chọn khởi công vào ngày 6/11 để bạn dự cho thuận lợi", ông Duy nhớ lại.
Theo thiết kế kỹ thuật được Chính phủ Việt Nam chuẩn y, 8 tổ máy phát điện và toàn bộ hệ thống nhà điều hành sẽ được đặt ngầm trong lòng núi. Nói cách khác, Thủy điện Hòa Bình sẽ là nhà máy thủy điện ngầm có công suất vào hàng lớn nhất thế giới. Để làm được nhà máy thủy điện ngầm, tháng 6/1981, ông Đồng Sĩ Nguyên - Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã cử một đoàn 50 thực tập sinh sang Liên Xô 6 tháng học làm hầm thủy điện.
Trong những năm 1981 - 1982, công trình thủy điện Hòa Bình bước vào giai đoạn nước rút để kịp tiến độ ngăn sông Đà đợt 1 vào đầu năm 1983. Lúc này, nhiều biểu ngữ, khẩu hiệu xuất hiện trên khắp công trường. Đó là "Tất cả vì dòng điện ngày mai!", "Hôm nay làm việc tốt hơn hôm qua. Ngày mai phải tốt hơn hôm nay"... đã cổ vũ hàng vạn cán bộ, công nhân, chuyên gia trên công trường hăng say thi đua và không ngừng sáng tạo để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Vì sao có lá thư gửi hậu thế?
Cũng tại thời điểm này, ông Bô-gô-tren-cô - Tổng chuyên viên Liên Xô trên công trường đã nêu ra một khuyến nghị: Nhân dịp ngăn sông Đà, nên có một lá thư để lại cho mai sau. "Đó là việc làm bình thường, đã trở thành truyền thống ở các nước mà có nghề xây dựng thủy điện lâu năm, ví như Liên Xô. Thông thường, trước khi ngăn đập, họ cùng nhau bàn bạc thảo ra một lá thư, rồi cho vào chai hoặc lọ, đậy kín lại rồi chôn vào thân đập. Họ hy vọng, một trăm năm sau hoặc lâu hơn nữa, khi con đập vỡ, cái chai đựng thư đó trôi lềnh bềnh, ai đó sẽ bắt được và mở ra xem, biết rằng người ta đã làm công trình này như thế nào. Ý nghĩa của nó chỉ đơn giản như vậy thôi", ông Duy kể lại.
Ý tưởng này được đồng chí Đỗ Mười, khi đó đang là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, trực tiếp làm Trưởng ban chỉ đạo xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình rất ủng hộ. Tuy nhiên, việc lưu giữ lá thư gửi hậu thế sẽ được tiến hành với nghi thức trang trọng tại một địa điểm xứng đáng, chứ không phải đem chôn vào trong thân đập.
Tổng Công ty xây dựng thủy điện Hòa Bình đứng ra tổ chức kêu gọi các nhân sĩ trí thức, nhà văn, nhà báo, những người tâm huyết với công trình thủy điện Hòa Bình viết những bức thư dự thảo gửi thế hệ mai sau (cả bằng tiếng Việt và tiếng Nga) để biên tập thành "Thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau".
(Còn nữa...)
Doanh nghiệp Việt nam (Theo Thanh Thủy/Kiến thức)

Có thể bạn quan tâm

Hào hùng một thời hoa lửa

Hào hùng một thời hoa lửa

“Trưa 2/4/1975, thanh niên sinh viên học sinh (TNSVHS) nội thành chiếm rạp hát Hòa Bình (Đà Lạt), treo lá cờ Mặt trận Giải phóng và băng rôn “Hoan hô Quân Giải phóng miền Nam” lên nóc rạp hát.

Mùa vàng dưới những rặng cây

Mùa vàng dưới những rặng cây

Những quả cây vàng ươm rụng xuống nằm lổn nhổn dưới rừng cây đã đến mùa thu hoạch. Từng đoàn người lụm cụm nhặt lấy phần hạt tinh túy nhất mang về cho chủ vườn, đưa vào các nhà máy, chế biến thành loại hạt giá trị cao cung ứng cho thị trường khắp thế giới.

Xanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối: Vươn mình trong kỷ nguyên mới

(GLO)- 50 năm sau ngày giải phóng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vùng đất “nóc nhà” của Đông Dương chuyển mình mạnh mẽ. Bước vào giai đoạn mới, vùng Tây Nguyên đang đứng trước vận hội mới, phát huy lợi thế vươn lên cùng đất nước.

Các dự án triển khai dang dở, kéo dài (trong ảnh là đoạn đường cụt giữa TP. Gia Nghĩa do vướng mặt bằng) làm lãng phí nguồn lực đầu tư công

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 4: Gia Lai ngày ấy, bây giờ...

(GLO)- Sau ngày giải phóng năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai đã cùng chung sức, kiến thiết lại quê hương từ đống hoang tàn của chiến tranh. Đến nay Gia Lai đã vươn mình phát triển mạnh mẽ, từ đô thị đến nông thôn khoác lên mình màu áo khang trang. 

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Năm nay, cụ Nguyễn Thị Tý ở xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, Hà Nội đã sống hơn trăm năm có lẻ, mà phần “lẻ” ấy lại không hề nhỏ tẹo nào. Ở tuổi 115, cụ hiện vẫn khỏe mạnh bên các con và 23 cháu, 43 chắt và 14 chút nội, ngoại…

Xanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2

E-magazineXanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2: Buôn Ma Thuột từ hoang phế vươn lên thủ phủ Tây Nguyên

(GLO)- Nếu chiến thắng Đak Tô-Tân Cảnh ( năm 1972) xoay chuyển cục diện chiến trường Tây Nguyên thì chiến thắng Buôn Ma Thuột đánh sập “tử huyệt” của địch, mở ra Chiến dịch Hồ Chí Minh để Bắc-Nam sum họp một nhà. Từ một thị xã hoang phế, Buôn Ma Thuột ngày nay xứng đáng là thủ phủ Tây Nguyên

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Từ bao đời nay, với người dân trên đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), mỗi khi có người thân gặp nạn ngoài biển mà không tìm thấy xác, gia đình họ sẽ tìm đến “pháp sư” nhờ nặn một “hình nhân thế mạng” bằng đất sét, thực hiện nghi lễ chiêu hồn, nhập cốt rồi mang đi chôn như người quá cố.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 5: Chuyện về người chiến sĩ nhiều lần cảm tử, góp công giải phóng miền Nam

Phải hẹn rất nhiều lần, tôi mới gặp được người cựu chiến binh, Đại uý Nguyễn Đức Trọng (SN 1956, quê quán xã Long Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, người góp công cùng đồng đội tham gia giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.