Thân thương chòi rẫy

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Không ai nhớ chòi rẫy có từ thuở nào nhưng đến bây giờ, tại một số làng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, mỗi khi canh tác trên khu rẫy mới, bà con thường tìm kiếm vật liệu như tranh, tre, nứa, lá… để dựng căn chòi để canh giữ, phòng vệ, cất trữ lương thực và che nắng, trú mưa.

Không quá khó khi men theo những con đường quanh co, gập ghềnh chạy dọc theo sườn núi để tôi nhìn đoán một căn chòi rẫy. Căn chòi ấy thường xa đường lớn, xa buôn làng và cất dựng ở ngay trên ruộng, giữa nương rẫy, cạnh suối, cạnh sông, ven đồi hay miết cùng thung sâu. Và nương rẫy ở đâu, chòi cất ở đấy. Có khi khắp vùng có vài cái chòi rẫy, nhưng cũng có khi, đi mãi mới bắt gặp lẻ loi một chòi ở xa.

Giữa rừng núi thênh thang, giữa nắng gió bời bời, giữa sơn nguyên rộng lớn, cứ hiện sinh góc chòi góp mặt với thời gian, hong mình trong nắng gió, lúc thấp thoáng núi đồi, lúc ẩn mình trong cây lá.

Minh họa: Huyền Trang

Minh họa: Huyền Trang

Đầu thu, không khí mát lạnh, trong lành, tôi hít một hơi trong sự khoan khoái. Phóng tầm mắt ra xa là ruộng bậc thang của làng, có dòng nước từ suối nghe đều đặn róc rách chảy. Xa xa, thấp thoáng chòi rẫy trên sườn đồi. Chòi rẫy có thể nằm chênh vênh như cái tổ chim, cũng có thể nhỏ bé, cô độc như cây cô đơn mọc lên giữa thung xanh. Đôi khi, tôi tự hỏi ai đã cất dựng nó lên rồi để nó một mình chơ vơ giữa trập trùng rộng lớn kia.

Thì chắc rồi, chòi rẫy làm gì có bản thiết kế, cũng không có quy hoạch hay kiến trúc sư nào chỉ dẫn. Điểm chung giống nhau giữa các chòi là độ cao vừa phải, khoảng lùi tương ứng, hình dáng đơn sơ và thường dưới mặt đất trũng xuống, chắc để nước mưa thoát nhanh. Nhìn sự tỉ mẩn trong cách bố trí khung chòi, sắp xếp từng phên tre, nứa, hay lồ ô, sự chăm chút trong từng cánh cửa sổ trổ hướng ra đường, càng thấy chòi rẫy quy củ, hài hòa, gắn bó cùng thiên nhiên đến nhường nào.

Mùa gieo trồng, mùa thu hoạch, nhiều gia đình còn ở trên chòi cả tuần, có khi nửa tháng. Nguyên bản của chòi rẫy là nơi dùng canh giữ, phòng vệ khi thú dữ tấn công, phá hoại hoa màu. Rồi sau đó làm nơi cất giữ lương thực khi mùa về mà không sợ trộm cắp. Có khi từ một mẻ khoai, buồng chuối đến cả một vụ mì, mùa lúa, cứ đem xếp ngay ngắn vào đây. Cần bao nhiêu cứ đi vào chòi lấy bấy nhiêu về mà dùng, cho đến khi thóc cạn, mùa vơi mới thôi.

Và khi chòi rẫy không dùng để cất giữ hoa màu thu hoạch, hay tài sản cá nhân nữa thì là nơi trú chân khi nắng mưa, phút nghỉ ngơi khi mệt mỏi. Lúc này, chòi rẫy được thiết kế nhỏ như túp lều, chỉ có mái che và sàn, không có phên vách, nhìn trống không cả tứ phía. Những chòi rẫy này thường được bố trí trên các đồi cao. Mái chòi được lợp bằng cỏ tranh và thường mái trước cao hơn để dễ trèo lên xuống cũng như quan sát. Mái sau thì thấp, có khi lợp kín đến sát sàn nền, không cần phải che vách phía sau.

Trong những chiều lang thang, tôi tình cờ gặp một cụ già đang gùi nắng lên chòi. Mỗi khi buồn nhớ nương rẫy, thương những tháng ngày xưa gian khó, cụ thường đến đây uống rượu và ngồi hát một mình. Trong căn chòi ký ức, cụ trải lòng với tôi rằng: thuở lập làng rồi chọn canh tác phía nương rẫy kia, thì toàn là cây rừng. Chiều về, rừng vọng lại tiếng mang tác, có những lúc ra suối lấy nước lại gặp cả heo, thỉnh thoảng có thể lượm được răng nanh của hổ báo, lợn lòi.

Theo nếp quen, người đến trước giúp đỡ người đến sau, hướng dẫn cách thức làm ăn, ra rừng, suối chặt cây, chặt tre, lồ ô, bó tranh dựng chòi. Cuộc sống nghĩa tình và ấm áp. Nên mấy nhà chụm lại, bàn nhau cất một cái chòi. Cũng bởi cái khó nó khiến con người ta nghĩ ra cách vừa tránh ẩn thú dữ vừa cất giữ bảo vệ của cải.

Giữa bốn bề rừng núi thâm trầm, nắng chiều le lói rọi vào chòi rẫy, trên những lớp vách bằng lồ ô đập dập, tôi thấy gương mặt cụ vui tươi, rạng rỡ. Và khi bước ra cái chòi rẫy nhỏ bé bạc phếch nắng mưa, tôi thêm thương những tâm hồn nhân hậu thủy chung của làng.

Có thể bạn quan tâm

Dốc xưa

Dốc xưa

(GLO)- Nhìn từ trên cao xuống, bạn sẽ thấy đèo dốc như những dải lụa mềm mại. Ấy vậy mà khi đặt chân đến đó, bạn sẽ thấy nó như một thách thức lớn khiến ta phải ngẫm nghĩ thật nhiều. Nhưng, không phải lúc nào chênh vênh cũng làm ta ngã mà lại bồi đắp nên nghị lực và ý chí vượt khó.

Ra Bắc, vào Nam

Ra Bắc, vào Nam

(GLO)- Hơn nửa đời người, tôi loay hoay đi về giữa 2 miền Nam-Bắc. Miền Bắc là quê hương, là nơi tôi cất tiếng khóc chào đời. Còn miền Nam là nơi tôi học tập và trưởng thành.

Ảnh minh họa: Phùng Tuấn Ngọc

Mùi Tết

(GLO)- Có một ngày, tôi bỗng ngồi nhớ nhung mùi Tết, để rồi tự hỏi mùi của Tết là gì? Phải chăng đó là mùi của nồi bánh chưng đang sôi lục bục ở góc sân đêm 29 Tết hay là mùi thơm nồng của dưa hành dưa kiệu mới ngấu?

“Mùa đi cùng tháng năm”

“Mùa đi cùng tháng năm”

(GLO)- Rồi thời gian cũng sớm vẫy mùa xuân trở lại. Tôi đoán thế khi đang đứng ở hành lang một dãy phòng học nhìn ra buổi sáng mà mọi vật như còn bỡ ngỡ với “cơn nắng se ngang trời đông”. Như thể ngày hôm qua và cả hôm kia nữa, chưa hề gió lạnh.

Hoa rù rì bên dòng Pô Cô

Hoa rù rì bên dòng Pô Cô

(GLO)- Dòng Pô Cô huyền thoại uốn lượn qua miền biên giới Ia Grai trước khi chảy qua Campuchia hợp lưu với sông Mê Kông. Mỗi độ cuối đông đầu xuân, ven bờ sông và trên cồn bãi xuất hiện một loài hoa rất đẹp, người Jrai gọi là bra tang hay còn gọi là hoa rù rì.

Công nhân Công ty 74 vận hành máy băm trộn cỏ làm thức ăn cho bò. Ảnh: T.S

Tình ca du mục miền Ia Kla

“Thảo nguyên bát ngát mênh mông tận chân trời/Cỏ cây hoa lá hương thơm tỏa ngát đồng”. Giai điệu ca khúc lãng mạn của những năm tuổi trẻ cứ nhẹ nhàng lẩn quất trong tâm trí khi tôi đến thăm trại bò siêu thịt của Công ty TNHH một thành viên 74 (Binh đoàn 15) trên địa bàn xã Ia Kla, huyện Đức Cơ.

Cầu Bến Mộng. Ảnh: Phạm Quý

Bên kia bờ sông Ba

(GLO)- Nhà tôi ở bên hữu ngạn sông Ba, nơi phố thị tấp nập, náo nhiệt. Ở nơi đông vui, thuận tiện cho sinh hoạt, nhưng đôi khi tôi lại cảm thấy ngột ngạt, tù túng bởi sự chật chội, ồn ào.

Đèo An Khê. Ảnh: Phan Nguyên

Bâng khuâng chiều An Khê

(GLO)- Tôi trở lại An Khê vào một chiều mưa. Cơn mưa không ồn ào mà rơi êm vào ký ức, đánh thức một miền nhớ xa xôi, thuở nơi đây còn là một thị trấn nhỏ bình lặng nằm ven quốc lộ 19.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Mùa về trên lưng áo mẹ

(GLO)- Từ khi còn nhỏ, tôi đã có thói quen dậy sớm. Mỗi khi tiếng mấy con gà ở chái bếp cất lên, tiếng đòn gánh dựng ở góc nhà sơ ý va vào liếp cửa, tôi lại nghe tiếng ho cố nén của mẹ. Lại thấy thương mẹ nhiều hơn.

Ảnh minh họa: Phạm Quý

Mùa lá rụng

(GLO)- Phố nhỏ của tôi đã vào mùa cây trút lá. Lang thang dọc con đường quen, tôi nhận ra bên hè phố, từng đám lá khô buông dày. Muôn vàn chiếc lá nương theo gió sà xuống những ô gạch cũ, la đà trên mái ngói hiên bàng bạc gam màu trầm. Tôi ngồi trong một góc phố, miên man nghĩ về triền xanh hoa cỏ.

Minh họa: H.T

Ký ức chợ quê

(GLO)- Khi tiếng gà gáy vang lên trên mái nhà, mẹ tôi vội trở dậy chuẩn bị ra chợ. Không chỉ riêng mẹ tôi, việc đi chợ lúc sáng sớm đã trở thành nếp quen của nhiều người dân quê.

Bước ra ngày mới

Bước ra ngày mới

(GLO)- Lúc còn đi học, mỗi buổi sớm mai, tôi thường nghe thấy tiếng bánh xe lăn trên đường rồi sau đó mới là tiếng những cánh cổng sắt được mở ra, tiếng người đi thể dục lao xao.

Ảnh minh họa: Minh Lê

Mây giăng mắt núi

(GLO)- Qua ngày lập đông, còn bao nhiêu heo may gió cũng mang về theo mùa hun hút. Trên đầu dốc, cây bằng lăng núi lá đã chuyển thành màu đỏ sậm như những nốt son ấm áp giữa bao la xanh. Và mây ở đây, bốn mùa cứ lờn vờn khắp các triền đồi.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Vườn bắp của ba

(GLO)- Nhiều năm ở phố nhưng tôi đã quen với đất đồng, quen với sự bình yên làng mạc. Bởi vậy, hễ có dịp là tôi tranh thủ về quê, chẳng nhất thiết là phải cuối tuần.