Sử thi đồng bào DTTS ở Kon Tum

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh Kon Tum thôi đã có đến trên 100 sử thi Xơ Đăng và trên 60 sử thi Ba Na được phát hiện. Với số lượng kể trên, mọi người mới biết rằng mảnh đất cực Bắc Tây Nguyên này là cả một… “vương quốc” sử thi!

Do lần đầu tiên sử thi Tây Nguyên được phát hiện và giới thiệu vào năm 1927 (sử thi Dăm Săn), và tiếp sau đó lại thêm vài sử thi khác được tìm thấy và giới thiệu đều là của đồng bào Ê Đê, nên lúc ban đầu mọi người nghĩ rằng chỉ có người Ê Đê - khu vực Nam Tây Nguyên mới có sử thi.

Mãi đến năm 1988, khi tìm thêm được một số sử thi của các dân tộc khác trên toàn Tây Nguyên thì mọi người mới hay nơi đây còn có cả một kho tàng sử thi chưa biết hết. Thế là một dự án cấp nhà nước “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên” được Chính phủ phê duyệt, giao Viện Nghiên cứu văn hóa Việt Nam phối hợp với các tỉnh Tây Nguyên tiến hành từ năm 2001 đến 2007 đã cho ra một kết quả không ngờ. Chỉ tính riêng trên địa bàn tỉnh Kon Tum thôi đã có đến trên 100 sử thi Xơ Đăng và trên 60 sử thi Ba Na được phát hiện (Ở các dân tộc khác trên địa bàn Kon Tum chưa phát hiện được sử thi). Với số lượng kể trên, mọi người mới biết rằng mảnh đất cực Bắc Tây Nguyên này là cả một… “vương quốc” sử thi! Trong tổng số trên dưới 170 tập Sử thi đồng bào DTTS ở Kon Tum ấy đã có khoảng một phần ba tập được phiên âm tiếng dân tộc, dịch ra tiếng phổ thông, và xuất bản bởi Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

Ở sử thi Ba Na, ngoài một số rất ít tập kể chuyện với tên tuổi vài nhân vật khác, còn đa số đều xoay quanh nhân vật Giông và Giỡ (chủ yếu là Giông). Có thể kể: Giông - Giỡ mồ côi từ nhỏ, Giông - Giỡ đi săn chém cọp của Dăm Hơ Dang, Giông làm nhà mồ, Giông cứu đói dân làng mọi nơi, Giông cứu nàng Rang Hu, Giông đánh quỷ Bung Lung, Giông đánh đổ núi đá cao ngất…


 

Bên bếp lửa. Ảnh: Hồng Trúc
Bên bếp lửa. Ảnh: Hồng Trúc


Ở sử thi Xơ Đăng thì hầu như chỉ xoay quanh nhân vật Dăm Duông. Mỗi câu chuyện về Dăm Duông được kể riêng biệt, nhưng gần như trong một tổng thể liên hoàn về nhân vật này. Có thể kể một số chuyện: Dăm Duông ở trên trời, Dăm Duông bị bắt làm tôi tớ, Dăm Duông làm thủ lĩnh, Dăm Duông đi theo thần Tung Gur, Dăm Duông làm nhà rông, Dăm Duông cứu nàng Bar Mă…

Sử thi có một số đặc điểm, về thời gian: thời hồng hoang xa xưa; không gian: miền núi rừng hoang dã; sự kiện: hào tráng, thần kỳ; ngôn ngữ: phóng đại; nhân vật: nửa người nửa thần… Những đặc điểm ấy nhằm để mọi diễn biến đều mang yếu tố siêu nhiên, phi thường. Có phải đó là cách gửi gắm những ước mơ thích nghi môi trường, khắc phục thiên nhiên, bớt kẻ xấu ác… mà con người khó thực hiện được trong cuộc sống cộng đồng?

Muốn gửi gắm mơ ước ấy thì những nhân vật chính trong sử thi đều được xây dựng như một vị “á thần”, tức họ cũng là người xuất thân từ cộng đồng, gần gũi với cộng đồng, nhưng tài trí vô song, dáng vóc và sức khỏe vô địch, nhân cách và đạo đức cao đẹp, nhất là đã được thần linh trao truyền cho những bí quyết, những khả năng siêu phàm để “cứu nhân độ thế”.

Ví dụ Dăm Duông - nhân vật chính trong sử thi Xơ Đăng - là người được sinh ra trong gia đình ông Gleh ở một làng nọ. Nhưng nguồn gốc ông Gleh lại là con trai của Tơ Rõh là Thần Sấm sét ở trên trời. Trước đó, Thần Tơ Rõh thấy con trai Gleh của mình không đủ các tố chất cần thiết để trao truyền quyền phép nên đã cho xuống mặt đất sinh sống. Rồi khi thấy trong đàn con của Gleh - tức cháu nội của mình - có được Dăm Duông là đứa thông minh, khỏe mạnh, siêng năng, đức độ nhất, hầu như hội đủ điều kiện cần thiết, thì Thần Tơ Roh quyết định đưa Dăm Duông lên trời ở với mình từ bé và trao truyền phép thuật cho cháu nội. Như vậy, về danh nghĩa thì Dăm Duông ở trên trời, nhưng thực chất thì được ông nội thường cho về nhà, về làng, tức xuống mặt đất để thực hiện những hành động giúp đời, cứu người.

Muốn có một “con người” tài giỏi như vậy, sức tưởng tượng tuyệt vời của dân gian đã khéo léo cấu trúc nhân vật Dăm Duông mặc dầu xuất thân là người thường nhưng có gốc gác thần linh, tôn vinh Dăm Duông như một vị… “á thần”. Mà đã là Thần nên trong hằng trăm câu chuyện kể về Dăm Duông đều là nhưng việc làm phi thường, tốt đẹp để cứu giúp cõi người.

Những tập sử thi Xơ Đăng, Ba Na dày dặn đang được lưu trữ ở Thư viện tỉnh. Hãy đến với Sử thi đồng bào DTTS ở Kon Tum để thấy nơi đây quả là một “Miền đất huyền ảo” (từ dùng của nhà dân tộc học Dam Bo).       

Theo Tạ Văn Sỹ (baokontum)

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

null