Nước mắm Phan Thiết thời bao cấp

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

So với nước mắm Phú Quốc thì nước mắm Phan Thiết thuộc loại “lão làng” bởi đã hình thành và phát triển cách đây hàng trăm năm.


Năm 1906, nhằm mục đích chấn hưng kinh tế, phong trào Đông Du khai sinh tổ chức Liên Thành Thương quán, xây dựng tại Phan Thiết một mô hình sản xuất nước mắm quy mô lớn.

Liên Thành Thương quán đã góp công rất lớn đưa thương hiệu nước mắm Phan Thiết lan tỏa khắp trong Nam ngoài Bắc.

Thế nhưng, chỉ trong hơn 10 năm sau ngày giải phóng miền Nam, khi chuyển đổi sang hình thức công ty hợp danh, nước mắm Phan Thiết dần mất đi lợi thế độc tôn trên thương trường...

 

Ông Phạm Trọng Sự, thuộc gia đình hàm hộ nước mắm xưa ở Phan Thiết, vẫn không thôi tiếc nuối khi nhắc lại nghề làm nước mắm truyền thống của gia đình mình.
Ông Phạm Trọng Sự, thuộc gia đình hàm hộ nước mắm xưa ở Phan Thiết, vẫn không thôi tiếc nuối khi nhắc lại nghề làm nước mắm truyền thống của gia đình mình.

Mua lén, bán lậu

“Sụt giảm sản lượng chỉ là một chuyện, điều đau lòng hơn là nhiều cơ sở sản xuất làm ăn gian dối để có sản phẩm phân phối ra miền Bắc.

Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, thương hiệu chung của nước mắm Phan Thiết mà bao thế hệ hàm hộ đã gầy dựng” - ông Nguyễn Văn Bá (Ba Bá, 70 tuổi, ở phường Lạc Đạo, TP. Phan Thiết) ngậm ngùi nhớ lại giai đoạn hơn 10 năm sống trong thời kỳ bao cấp của nghề làm nước mắm.

“Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bị kiểm soát gắt gao. Nguyên liệu cá, muối chỉ được mua theo phân phối, số lượng bao nhiêu đều mở sổ sách ghi chép cẩn thận để sau này quy ra sản lượng nước mắm phải làm nghĩa vụ cho Nhà nước.

Gia đình tôi có mấy chục miệng thùng nhưng không dám hùn vô làm ăn kiểu đó, đành bán tháo, bán đổ với giá rẻ cho những cơ quan, tổ chức tham gia làm nước mắm dưới danh nghĩa cải thiện kinh tế cho đơn vị” - ông Bá kể.

Nghề làm nước mắm gia truyền của gia đình ông Bá cũng gián đoạn từ đó. Nhưng do nhớ nghề, cũng là kiếm ít đồng lời sinh sống, mẹ ông đành ra bến tàu phía sau nhà mua lén mỗi ngày một ít cá về đổ vô mái vú (loại lu sành sức chứa cỡ 200 lít) giấu trong nhà để chượp.

Tới khi cá chín, nước mắm được chia nhỏ vô túi nilông, chai nhựa, bình toong để ngụy trang, rồi những người trong gia đình thay nhau mang lên tàu lửa vào TP.HCM bán kiếm lời.

“Mỗi lần đi trót lọt chừng vài ba lít thôi là coi như huy hoàng, có tiền mua sắm, chi xài cho cả nhà” - ông Ba Bá nhớ lại.

Nhưng làm nghề giậm giật theo kiểu đó không đủ sống, ông Bá cùng người em trai đi mượn đất người ta bỏ hoang, phát cỏ trồng khoai lang. Nhờ có xác mắm làm phân bón, khoai anh em ông Bá trồng củ nào cũng nặng tới cả ký. Từ đó anh em ông mới có thể chăm lo cho các con ăn học.

Một thời gian sau, do có quá nhiều cơ sở làm nước mắm trước đây bỏ nghề, cá đánh về bán không hết, nhiều khi phải đổ làm phân, ngư dân làm reo dữ quá, chính quyền địa phương mới nới tay làm lơ cho những hộ sản xuất nhỏ lẻ tự do mua cá về ủ chượp.

Thấy tình hình thuận lợi, gia đình ông Ba Bá dần chuyển từ “chượp lén, bán lậu” sang sản xuất công khai. Tới năm 2000, khu sản xuất nước mắm tập trung ở P.Phú Hài mở ra, anh em ông hùn nhau thuê đất, góp vốn mua lại thùng, cất lều chính thức quay lại với nghề.

Tới khi đăng ký thương hiệu rồi đóng chai, dán nhãn sản phẩm để đưa ra thị trường, cả nhà mới hay thương hiệu nước mắm Ngư Hương do bà ngoại Hứa Thị Mãi gầy dựng gần trăm năm trước, giờ đã có một cơ sở sản xuất nước mắm ở TP.HCM đăng ký bản quyền.

Không còn cách nào khác, gia đình ông Bá đành ngậm ngùi chọn tên mới Hồng Ngư cho sản phẩm.

Nhờ sự chung tay góp sức của bốn anh em trai và người chị gái trong gia đình, thương hiệu nước mắm Hồng Ngư dần tìm được chỗ đứng trên thị trường TP.HCM và một số tỉnh, với sản lượng cung ứng hàng chục ngàn lít mỗi năm.

Bước vào thời kỳ đổi mới, số nhà lều quay lại nghề cũ và phục hồi được sản xuất như gia đình ông Ba Bá chỉ là số ít.

Nuối tiếc nghề xưa

Ở Phan Thiết các cơ sở sản xuất nước mắm được gọi chung là nhà lều. Nhà lều nào có thương hiệu nổi tiếng, quy mô sản xuất từ 5-7 que trở lên (mỗi que 24 thùng, phổ biến là cỡ thùng sức chứa 4 tấn nguyên liệu/cái), được gọi là hàm hộ.

Giai đoạn cực thịnh trước năm 1975, các làng nghề nước mắm nổi tiếng ở Phan Thiết có hơn 500 hàm hộ, nhà lều, gần như độc chiếm thị trường nước mắm miền Nam với sản lượng khoảng 40 triệu lít mỗi năm, tương ứng 70% tổng sản lượng của cả nước.

 

Chất lượng nước mắm Phan Thiết không thay đổi

Đó là ý kiến của ông Nguyễn Huy Tiến, phó chủ tịch Hội Nước mắm Phan Thiết. Ông Tiến giải thích: “Sau đổi mới, khoảng năm 1990, hoạt động sản xuất nước mắm dần trở lại, sản lượng dần đạt mức khoảng 25 triệu lít/năm.

Có điều rất ít hàm hộ có truyền thống làm nước mắm lâu đời quay lại với nghề, thay vào đó nhiều hộ sản xuất nổi lên nhờ tích lũy kinh nghiệm trong quá trình mua bán nước mắm thời bao cấp.

Tuy tuổi nghề chưa lâu, nhưng hầu hết sản xuất theo quy trình truyền thống, vẫn sử dụng nguyên liệu là cá và muối, thời gian ủ chượp 8-10 tháng.

Cách làm không thay đổi, những yếu tố tạo nên nét đặc trưng riêng cho nước mắm Phan Thiết như khí hậu, thổ nhưỡng, nguồn nước cũng không đổi nên tôi nghĩ chất lượng nước mắm bây giờ không khác gì nhiều so với ngày trước, từ màu sắc tới mùi vị”.

Đến thời bao cấp, các hàm hộ, nhà lều có quy mô ủ chượp từ 100 tấn nguyên liệu trở lên được đưa vào các công ty hợp danh; đồng thời Nhà nước cũng thành lập các công ty nước mắm quốc doanh.

Hệ quả của việc làm này là nhiều thương hiệu nước mắm nổi tiếng của Phan Thiết đã biến mất, hàng loạt hàm hộ, nhà lều lớn ngừng sản xuất, sản lượng nước mắm Phan Thiết đã giảm nhanh, đến năm 1987 chỉ còn 8-9 triệu lít...

Tiếp chuyện chúng tôi trong căn nhà được xây dựng nhờ số tiền tích lũy được trong những năm theo nghề làm nước mắm, ông Phạm Trọng Sự (ở P.Hưng Long, TP Phan Thiết) tỏ rõ vẻ tiếc nuối khi nhắc lại chuyện cũ:

“Trăm năm trước, cụ cố chúng tôi lập lều làm nước mắm ngay cửa sông Cà Ty, thuộc P.Phú Tài bây giờ. Các thế hệ sau tiếp bước đã khuếch trương thương hiệu nước mắm Kiết Thành với hệ thống đại lý, chi nhánh phân phối tại Sài Gòn và nhiều địa phương trong cả nước”.

Tới thế hệ của anh em ông Sự, ngoài 200 miệng thùng, có thể làm ra cả triệu lít nước mắm mỗi năm, gia đình còn sắm thêm được ghe thuyền cùng đội ba bánh, xe máy chuyên chở, giao hàng.

Người trong nghề nói rằng nhờ biết quý trọng chữ tín trong cung cách sản xuất, mua bán, Kiết Thành đã góp công cùng những thương hiệu lớn khác ở Phan Thiết như Mậu Hương, Hồng Hương, Hiệp Hòa, Hồng Sanh, Vạn Hương... đưa thương hiệu nước mắm Phan Thiết bay xa...

Nhưng bây giờ ông Sự đã là người “ngoại đạo”. Khi chúng tôi hỏi vì sao không tiếp tục sản xuất nước mắm, người đàn ông từng sinh ra trong một gia đình hàm hộ có tiếng ở Phan Thiết trả lời bùi ngùi:

“Thời đó mỗi miệng thùng trị giá cả cây vàng, gia đình tôi sắm được gần 200 cái đều bị Nhà nước trưng dụng, rồi vú mái, tĩn, thùng trổ (thùng gỗ nhỏ dùng hứng nước mắm thành phẩm từ miệng lù) họ cũng “mượn” hết, tới chừng trả lại đã hư hỏng, sứt mẻ gần hết, không thể sử dụng, muốn quay lại sản xuất thì phải đầu tư mới nên gia đình dè dặt, chỉ làm cầm chừng với mớ đồ tận dụng được, đến năm 2010 thì ngừng sản xuất hẳn luôn”.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

(GLO)- Gần 40 năm gắn bó với rừng, ông Nguyễn Văn Chín-Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra (xã Hra, tỉnh Gia Lai) được biết đến như vị “thủ lĩnh giữ rừng” đặc biệt: từ việc biến lâm tặc thành người giữ rừng đến phủ xanh vùng đất cằn cỗi nơi “cổng trời” Mang Yang.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

null