Nữ lái xe đường Trường Sơn huyền thoại – Ngày ấy, bây giờ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Giữa thời điểm cả nước diễn ra nhiều hoạt động kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3/1931 – 26/3/2021), rất nhiều đoàn viên, cựu đoàn viên ưu tú một thời cùng tìm về di tích nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, không chỉ để tham quan, mà còn là dịp để tìm lại những hồi ức đẹp đẽ về một thời thanh xuân sôi nổi.
Trong số đó có những vị khách đặc biệt – các cựu nữ lái xe trên đường Trường Sơn huyền thoại. Cùng với những hiện vật, hình ảnh được trưng bày, câu chuyện của các cựu nữ lái xe giúp khách tham quan không chỉ sâu sắc hơn về những trang sử hào hùng của đất nước mà còn tự hào hơn về các thế hệ cha anh, vững bước noi theo.
Cùng với các cựu đồng đội đi thăm di tích nhà tù Hỏa Lò, bà Nguyễn Thị Kim Quy cho biết, các thành viên trong nhóm đều là các cựu thanh niên xung phong, sau đó được chọn chuyển sang quân đội, tham gia phục vụ trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Đến nay, tất cả đều đã ngoài 70 tuổi nhưng những kỷ niệm, ký ức về thời thanh niên sôi nổi vẫn chưa bao giờ phai mờ.

Các cựu nữ lái xe Trường Sơn ôn lại kỷ niệm xưa cùng các đại biểu tham quan bảo tàng.
Các cựu nữ lái xe Trường Sơn ôn lại kỷ niệm xưa cùng các đại biểu tham quan bảo tàng.
“Ngày ấy, nhiều người trốn gia đình đi thanh niên xung phong. Tôi giấu bố mẹ, lĩnh quân tư trang về, gửi nhà bạn. Lúc chúng tôi lên xe, bố mẹ mới biết. Xe di chuyển, bố mẹ cứ chạy theo xe mà khóc… Nghe tin Binh trạm 12, Đoàn 559 tuyển nữ, tôi liền xung phong đi vào tuyến trong. Vào Trường Sơn từ năm 1968 đến năm 1970, chúng tôi chở súng, đạn, lương thực thực phẩm, vận chuyển thương binh, không nề hà bất cứ công việc. Lái xe chủ yếu đi đêm, ban ngày thì giấu xe mới được ngủ, nghỉ. Chúng tôi nhiều lần chạy xe qua ngã ba Đồng Lộc, Hà Tĩnh. Lần cuối cùng, các nữ thanh niên xung phong ở Đồng Lộc còn dặn: Các chị đi về nhớ mua quà cho chúng em!  Khi chúng tôi đánh xe quay trở về, chưa có quà thì nghe tin 10 cô đã hy sinh. Các cô ấy còn trẻ quá!”. Bà Nguyễn Thị Kim Quy nhớ lại.
Bà Dương Thị The cũng cho hay, bà đi thanh niên xung phong từ năm 1964, cũng trốn cha mẹ mà đi. Bố bà theo đến tận ga Từ Sơn, Bắc Ninh tìm. Bà phải chui trong đống chăn để trốn… 5 tháng sau, bà đi vào Trường Sơn.
Bà Lê Thị Hải Nhi thì kể, bà đi thanh niên xung phong năm 17 tuổi. Để thể hiện quyết tâm, bà lấy kim chọc vào đầu ngón tay, dùng máu viết đơn tình nguyện. Sau khoảng 1 năm lăn lộn cùng thanh niên xung phong tại Lào Cai, Yên Bái, bà được chuyển sang quân đội. “Được chuyển sang bộ đội, dù làm lái xe, chúng tôi cũng thấy rất vinh dự. Nhưng hoàn thành khóa học, về đơn vị rồi, đội nữ lái xe không được nhận nhiệm vụ ngay. Chúng tôi nhiều lần yêu cầu Chính trị viên lên đề xuất với chỉ huy. Nghe chỉ huy thông báo lại là lãnh đạo nói địch đang đánh ác liệt, rất dễ hy sinh, chưa cho nữ lái xe. Cả đội thấy vậy khóc lóc, đề nghị Trung đội trưởng đề xuất lãnh đạo tiếp thì được trả lời là con gái tóc dài thế kia thì lái thế nào? Nghe thế, tất cả bảo nhau cắt tóc ngắn. Sau đó ít lâu thì chúng tôi được nhận xe”, bà Lê Thị Hải Nhi nói.
Cũng theo bà Lê Thị Hải Nhi, tuổi trẻ, không ngại gian khổ, vất vả, nhưng với những nữ lái xe Trường Sơn ngày ấy, sự hy sinh của đồng đội vẫn luôn là những nỗi đau khó vượt qua nhất. Bà nhớ một lần lái xe chở 4 thương binh, trong đó có 1 người bị thương nặng rơi vào mê sảng. Đường xóc, vết thương nặng, họ quá đau. Không có thuốc giảm đau, họ yêu cầu bà hát. Thế là bà hát hết bài nọ sang bài kia, cả hát chèo, cả quan họ. Khi đến trạm giao liên, người lính bị thương nặng nhất đã mất… Có trường hợp, bà vừa nhận một người đồng hương, nói chuyện quê hương, ôm nhau hẹn ngày giải phóng. Xe di chuyển 1 đoạn thì nghe tiếng nổ lớn. Nghe xe trước báo lại là anh đã hy sinh. Bà vừa đi vừa khóc. Chiến trường ở phía trước, khóc, đau đớn thế nào cũng tiến về phía trước…
“Rừng rậm, vắt, muỗi, sốt rét, nhưng không ai nản chí. Lái xe ở Trường Sơn được cấp cho thùng lương khô. Rau vào rừng hái, có khi là quả khế, quá vả… Có thời gian dài không kiếm được rau xanh nên rất thèm. Gặp xe chở từ thực phẩm ngoài Bắc vào, được cho 1 buồng chuối xanh, bó rau muống, cả đội mừng không tả xiết, nấu nướng ăn uống như mở tiệc. Có đêm xe qua đoạn đường khó, tôi xuống dò đường, thấy đám lá mát mát dưới chân, ngắt lên nếm thử, phát hiện ra lá me chua đất, mừng quá, gọi nhau xuống hái, được một bọc to… Kham khổ thế nên tóc rụng nhiều. Tôi cuộn lại, giấu đi, sợ đồng đội nhìn thấy lại buồn” - bà Lê Thị Hải Nhi kể.
Chiến trường gian khổ, ác liệt nhưng cũng là nơi nảy nở và nuôi dưỡng nhiều mối tình đẹp. Chuyện tình của bà Nguyễn Thị Nguyệt Ánh và người chồng- ông Trần Công Thắng là trường hợp như thế. 
Bà Ánh kể, ngày ấy, ông và bà đều là thanh niên xung phong. Hò đối đáp là một thú vui phổ biến. Đơn vị bà có nhiều người hò rất giỏi. Ông và bà quý mến nhau qua những câu hò đối đáp. Năm 1968, bà về đội nữ lái xe Trường Sơn cũng là thời điểm ông sang Lào nhận công tác. 
Lúc lên đường, ông hò thay lời hẹn: “Đất tốt anh để trồng hành. Bao nhiêu thứ đẹp anh để dành lái xe”… Chiến tranh ác liệt, liên lạc cũng theo đó đứt đoạn. Năm 1972, bà cùng các đồng đội về Hà Nội nhận công tác mới. Sau đó, đội có dịp tham gia lễ duyệt binh tại Quảng trường Ba Đình. Thời điểm ấy, ông cũng về Hà Nội thăm nhà. Nghe người nhà nói ngoài Quảng trường có đội nữ lái xe Trường Sơn, vội chạy ra tìm. 2 người nên duyên, sống hạnh phúc đến bây giờ…
Được biết, cho đến ngày hoàn thành nhiệm vụ, đội nữ lái xe Trường Sơn là 1 trong số ít đơn vị bảo toàn trọn vẹn lực lượng. Đất nước thống nhất, các thành viên dần dần nối lại liên lạc, tổ chức các chuyến thăm lại chiến trường xưa, hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Đến nay, 10 người đã mất, chỉ còn lại 36 thành viên. Cuộc gặp gỡ tại di tích nhà tù Hỏa Lò cũng là dịp để mọi người nhớ về thời thanh xuân đã qua. Chia sẻ với chúng tôi, các cựu nữ lái xe Trường Sơn năm nào đều cho hay, họ tự hào vì đã được cống hiến tuổi trẻ của mình cho quê hương, đất nước.
N.Nguyễn (cand.vn)

Có thể bạn quan tâm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

null