Nồng nàn hương vị rượu cần

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Trong đời sống văn hóa, tinh thần của bà con các dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung, người Jrai vùng Ia Pa nói riêng, rượu cần (rượu ghè) là một loại thức uống quý, không thể thiếu trong các buổi sinh hoạt cộng đồng hoặc của từng gia đình, dòng họ.

Đặc biệt là vào dịp tổ chức lễ trọng như cúng thần linh, hội làng, bỏ mả, mừng lúa mới, lễ thổi tai, báo hiếu, đám cưới... hoặc khi có khách quý đến chơi.

Là người con Jrai, tôi sinh ra và lớn lên trên vùng đất Chư Mố, huyện Ia Pa. Quê tôi một bên là núi, một bên là sông với những nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Jrai. Đó là tiếng cồng chiêng trầm bổng, ngân vang, là những điệu xoang nhịp nhàng trong các dịp lễ, hội, là lời ca tiếng hát đối đáp trong những buổi lao động đổi công trên nương rẫy hoặc trên nhà sàn vào mùa trăng sáng, là hương vị thức ăn dân dã lá mì cà đắng, cá trích muối é, muối teng leng… Đặc biệt nhất là hương vị rượu cần.

Bên ghè rượu cần. Ảnh: Nguyễn Linh Vinh Quốc

Bên ghè rượu cần. Ảnh: Nguyễn Linh Vinh Quốc

Từ bé, tôi nhiều lần được xem các dì, các cô-những người phụ nữ trong làng, trong dòng họ đi hái rễ, lá cây rừng về làm men và nấu, ủ rượu cần. Nhiều lần trong các nghi lễ cúng tế của làng, của gia đình, dòng họ, tôi được nếm, được thưởng thức những cang rượu cần thơm phức do người phụ nữ Jrai tự tay nấu, ủ bằng công thức, bí quyết gia truyền. Hương vị đặc trưng của rượu cần của quê hương đã nuôi dưỡng ước mơ tôi.

Ở mỗi vùng miền, mỗi dân tộc, mỗi gia đình, dòng họ đều có cách làm rượu cần với công thức, hương vị riêng. Đối với người Jrai vùng thung lũng Ia Pa, Ayun Pa, Phú Thiện, rượu cần được xem là ngon khi rượu thành phẩm có hương thơm ngậy, nồng nàn, hòa quyện mùi men và mùi của nguyên liệu; có vị ngọt, đắng nhẹ (có gia đình quan niệm rượu ngon khi có thêm một chút vị chua), màu rượu vàng nâu óng ánh, cả nam và nữ đều có thể sử dụng được. Hầu hết trong các ngôi nhà, các gia đình người Jrai đều có rượu cần và đã là phụ nữ Jrai thì đều biết nấu rượu cần. Rượu cần được làm khá công phu bằng chất liệu chủ yếu như: củ mì, hạt gạo, hạt cào, bắp, bo bo, nếp... Mỗi loại hạt sẽ mang lại hương vị khác nhau. Ở vùng thung lũng bên dòng sông Ba và sông Ayun, với sự bồi đắp phù sa màu mỡ sau mỗi mùa lũ đi qua, sẽ là nơi có điều kiện thổ nhưỡng phát triển tốt cho cây lúa, bắp...

Do đó, nguyên liệu chủ yếu để nấu rượu cần của người Jrai nơi đây là gạo tẻ, gạo nếp, thỉnh thoảng có gia đình nấu bằng hạt bắp hoặc củ mì. Để có được một bình rượu cần ngon thì gạo sau khi được lựa chọn, làm sạch, nấu chín, để nguội, múc ra nia sẽ được ủ men tự nhiên theo tỷ lệ phù hợp, tiếp đến ủ trấu, bỏ vào ghè, đậy kín, để lên men trong khoảng 30 ngày là sử dụng được. Men ủ rượu được người phụ nữ trong gia đình tự tay làm sẽ là yếu tố quan trọng quyết định đến hương vị của rượu. Bên cạnh đó, tỷ lệ trộn men với nguyên liệu chính cũng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của rượu. Rượu được ủ trong ghè với thời gian thích hợp sẽ được đem ra dùng.

Để thưởng thức rượu cần, người dùng chỉ cần đổ nước lọc vào ghè ngâm khoảng 20-30 phút, lấy lá chuối hoặc lá dong phủ chặt lớp cơm rượu trên miệng ghè, để ngăn trấu tràn lên khi uống và cắm cái cần vào sâu gần đáy ghè. Khi uống rượu cần, người ta dùng cang, mỗi người uống 1 cang. Sau mỗi lần uống, nước sẽ được đổ thêm khi hết và uống cho đến khi rượu nhạt. Một ghè có thể bỏ 1, 2, 3 hoặc 4 cần để chủ nhà và các khách mời cùng uống, tùy theo buổi giao lưu, tiếp đón khách hoặc là buổi cúng tế thần linh, hay thực hiện các nghi lễ khác. Tuy nhiên, thông dụng nhất, người ta thường là dùng từ 1 đến 2 cần để uống rượu. Món đặc sản đi kèm với rượu cần không thể thiếu trong mỗi gia đình Jrai khi có lễ, có khách quý đến nhà chính là món lá mì cà đắng, món nham bung (một loại canh truyền thống của người Jrai được nấu từ lá yao, còn gọi là bột ngọt và bột gạo), muối é, cơm lam, gà nướng, thịt heo nướng bếp.

Nếu có dịp, xin mời các bạn, những du khách thập phương hãy đến với vùng thung lũng Ia Pa, Ayun Pa, Phú Thiện để khám phá những nét văn hóa rất riêng của người Jrai chân chất, thật thà, hiền hòa, mến khách và cùng thưởng thức hương vị rượu cần nồng nàn, tận hưởng không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên với những vòng xoang nhịp nhàng, ấm áp.

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.