Nghệ thuật tạo tác tượng Phật Việt Nam

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Theo PGS-TS Trang Thanh Hiền, tượng Phật Việt Nam có những quy tắc nhận diện nhất định, nhưng cũng rất gần với đời sống và nhân tướng học của người Việt.

 

Tượng Quan âm chùa Hội Hạ (Vĩnh Phúc), bảo vật quốc gia - Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam - Ảnh NVCC
Tượng Quan âm chùa Hội Hạ (Vĩnh Phúc), bảo vật quốc gia - Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam - Ảnh NVCC



Muôn màu muôn vẻ

PGS-TS Trang Thanh Hiền đã mất 5 năm để viết cuốn sách Nghệ thuật tạo tác tượng Phật trong các ngôi chùa Việt (NXB Hà Nội). Trong những năm đó, bà đi rất nhiều ngôi chùa, chụp hình, đo vẽ lại những bức tượng Phật để phân loại, phân tích. Tượng đá, tượng đồng, tượng gỗ mít, tượng đắp đất tô màu... đều là đối tượng khảo sát của bà. “Tôi phải có đủ tư liệu ghi chép để phân tích đủ kiểu, đọc ra được chuẩn tắc trong tạc tượng để sau này trùng tu không chệch khỏi những gì đã trở thành di sản cha ông”, bà Hiền nói.

Chính vì thế, trong cuốn sách của bà Hiền có thông tin về hệ thống tượng Phật trong chùa, sơ đồ vị trí của chúng. Cũng có cả những khái niệm để người xem hình dung rõ hơn nguồn gốc của các chi tiết tạo hình trên tượng. Chẳng hạn, bà Hiền giải thích về ấn chuẩn đề, bảo tháp, bánh xe pháp luân, vỏ ốc, bảo bình, vành hào quang, các dạng bệ tượng như sư tử đội đài sen, rồng đội đài sen...

Sách cũng cho thấy “dòng chảy” của tượng qua nhiều thời kỳ. “Thời Lý, tượng thường được chạm khắc bằng đá với kích thước lớn. Thời Trần thì chất liệu đồng được ưa chuộng. Giai đoạn này Phật giáo được xem là quốc giáo, nên việc dựng chùa, tạo tượng thường do triều đình bỏ tiền ra hưng công. Do đó, chất liệu sử dụng cũng là chất liệu bền vững, trau chuốt, tỉ mỉ. Từ sau thời Mạc, với sự thay đổi của hình thức kiến trúc ngôi chùa Việt, truyền thống tượng đá vẫn tiếp tục nhưng điêu khắc gỗ bắt đầu phát triển mạnh hơn. Kỹ thuật chạm khắc gỗ và sơn thếp tượng Phật cũng đạt đến đỉnh cao ở thế kỷ 17 - 18”, bà Hiền phân tích.

Cũng theo bà Hiền, trong lịch sử phong kiến, khi vua, chúa bỏ tiền ra hưng công chùa chiền thì diện mạo của ngôi chùa cũng khác hẳn với điêu khắc và kiến trúc đồng bộ, đẹp đẽ. Với chùa làng, chùa dân, chất lượng tượng phụ thuộc vào làng đó giàu - nghèo, thịnh - suy ở từng giai đoạn.


Nghệ nhân tạo nên bản sắc Việt

Bà Hiền cũng tham khảo các sách về tạo tác tượng Phật xưa. Hiện chúng còn sót lại không nhiều, chủ yếu là chữ Hán - Nôm. Sách thường đề cập ba nội dung. Một là cách thức họa và tạc các pho tượng. Hai là cách thức bài trí đàn cúng Phật, có sơ đồ cụ thể cho các đàn cúng. Ba là các nghi thức an tượng, điểm nhãn, các bài kinh tán tụng dùng trong nghi thức này. Căn cứ nội dung của sách, ta thấy để tạo tác được một pho tượng Phật, thì người nghệ nhân phải thông thạo khá nhiều lĩnh vực ngoài kỹ thuật tạo tượng như toán học, thuật hình học và cả nhân tướng học. “Tỷ lệ được sử dụng trong các sách chủ yếu là sử dụng đơn vị đo của dân gian. Các đơn vị như ngón, thốn, túc là tỷ lệ đo đạc trong thực hành châm cứu Đông y”, bà cho biết.

Tuy nhiên điều thú vị nhất, theo bà Hiền, là những cuốn sách này không được phổ biến trong các làng nghề dù đã từng được sử dụng. Một khảo sát cho thấy nghệ nhân ở làng Sơn Đồng (Hà Nội) từng tạc những mẫu tượng trong sách Diên Quang Tam Muội tạo tượng kinh, song lại chưa bao giờ thấy sách. “Việc không phổ biến sách tạc tượng trong các làng nghề chứng tỏ vai trò của các nghệ nhân trong việc tạo tượng Phật là rất quan trọng. Vai trò này đã tạo nên bản sắc của tượng Phật Việt Nam. Chỉ có vài cuốn đã từng trở thành cẩm nang làng nghề. Khi việc tạo tác thành thạo, người ta bỏ sách để truyền miệng, truyền tay. Chính sự truyền miệng, truyền tay đã khiến việc tạo tác tượng có nhiều thay đổi”, bà Hiền phân tích.

Cũng theo bà Hiền, chính do lối thức truyền nghề này mà điêu khắc Phật giáo Việt, dẫu có ảnh hưởng từ điêu khắc Phật giáo Trung Quốc từ hệ thống sách vở thì cũng đã Việt hóa những nguyên tắc đó thành công thức riêng của người Việt để tạo tượng Phật Việt. “Các hình tượng điêu khắc trong chùa Việt hiện ra với các nhân tướng khác nhau là phản ánh đời sống và nhân sinh quan người Việt. Từ những kiếp người khổ đau gầy trơ xương đến những vị sung sướng béo tốt bụng phệ; từ những đứa trẻ sơ sinh đến vua, quan, lính dân... đều hiện diện. Trong đó, nổi bật nhất là hình tượng người mẹ Việt trong các pho tượng Quan âm, Bồ tát, Quan âm Thị Kính, Quan âm tống tử...”, bà Hiền nói.

Bà Hiền nhận định rằng công nghệ in ba chiều hiện nay đã giúp người ta có thể làm tượng giống y như đúc. Tuy nhiên, điều đó không mang lại cảm xúc cho các bức tượng cần phục dựng. Chính vì thế, cuốn sách này ra đời để người làm tượng hiểu hơn thẩm mỹ của ông cha và nối nghề.


 

Về cuốn sách, nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Thu Hòa nói: “Chùa Việt Nam, mặc dù bị ảnh hưởng bởi nhiều nền văn hóa, nhưng có những đặc trưng nhất định. Khác biệt đó thể hiện rõ nét nhất ở hệ thống tượng Phật về tạo tác, mỹ thuật cũng như đặc trưng bởi các lễ nghi mà nhiều khi chúng ta không chú ý vì quá quen thuộc. Quyển sách này sẽ nhắc nhở về những giá trị đó”.

Theo Trinh Nguyễn (thanhnien)

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

null