Nghề rèn của người Bahnar Đông Trường Sơn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Nhiều năm tìm hiểu thực tế tại vùng Đông Trường Sơn, chúng tôi mới có dịp tận thấy một lò rèn Bahnar đỏ lửa. Đó là bếp lò rèn của già làng Hmêh. Ông tham gia kháng chiến chống Mỹ từ năm 1966. Sau một lần bị thương vì bom, ông gần như bị điếc nên được đơn vị đưa về tuyến sau. Ông kể: “Mình biết nghề rèn nên được đưa về Huyện đội Kbang sung vào đội quân thợ rèn của đơn vị, làm dao, rựa, cuốc, xẻng phục vụ sản xuất, thỉnh thoảng tham gia vận tải lương thực.

Trong tổ có bộ đội người Kinh lẫn người Bahnar, là những thợ rèn giỏi. Nhờ vậy mà mình học được rất nhiều thứ. Bà con Bahnar trong vùng cũng mang sắt tới nhờ rèn cái rìu, cái rựa hoặc sửa chữa dụng cụ lao động bị hư hỏng, sứt mẻ. Mình làm giúp nhưng bà con thường cho lại một vài lon gạo”. Cũng theo ông Hmêh, thời kỳ chiến tranh, việc đi lại khó khăn, dụng cụ sản xuất cũng khan hiếm. Đàn ông Bahnar đi rừng, đi rẫy thì không thể thiếu cái xà gạc, con dao, cái rựa, xem như vật bất ly thân và họ rất quý chúng.

Sau khi xuất ngũ trở về làng Stơr sinh sống, ông Hmêh mải lo nương rẫy, con cái. Trước khi bước vào mùa phát rẫy làm nương hay “mùa ning nơng”, dân làng Stơr và các làng Bahnar quanh vùng thường thu gom nông cụ gùi ra các lò rèn ở An Khê sửa chữa hoặc làm mới. Lễ hội thì vào rừng chặt cây, đẽo tượng mồ, con dao, cái rìu, cái rựa phải thật bén sắc. Những con dao có cán dài với phần lưỡi ngắn nhưng rất bén để chia thịt, cắt tiết gà hiến tế thần linh. Hay vào mùa phát rẫy làm nương cũng vậy, công cụ lao động phải được chuẩn bị chu đáo vì chủ yếu phụ thuộc “sức người và đồ sắt”.

“Hồi đó, bà con phải đi bộ ra An Khê tìm lò rèn, có khi phải nắm cơm mang theo, đi 2 ngày mới về. Thấy vất vả quá nên mình kiếm đồ nghề, về đắp cái lò rèn bằng đất sét để phục vụ gia đình và giúp bà con. Đó là kiểu lò rèn truyền thống, quay tay tạo nhiệt nên mỗi khi rèn phải có 2 người mới làm được”-già làng Hmêh kể lại.

Từ chiếc lò rèn hết sức thô sơ gồm lò thổi đắp bằng đất sét, quay tay, đe, búa, kẹp, than củi, ông Hmêh đã tạo ra hàng trăm, hàng ngàn công cụ lao động có khả năng “ăn cây”, “ăn đất”.

Chị Đinh Lyai (con gái già Hmêh) cho hay: Chị nghỉ học sớm nhất nên phải phụ mẹ làm rẫy, phụ bố làm lò rèn. Hồi đó chưa có máy khò như bây giờ mà toàn phải quay tay thổi lửa. “Có những ngày làm đến đêm khuya vẫn chưa đi nghỉ, có khi mình vừa quay vừa ngủ gật. Nhưng bố cẩn thận, miệt mài, rèn ra những cái rìu, cái rựa sáng bóng, sắc bén”-chị Lyai tâm sự.

Còn anh Đinh Mỡi (con trai già Hmêh) thì chia sẻ: “Người ta mang sắt tới cho bố rèn con dao, cái rựa, tiền công cũng chỉ 5-10 ngàn đồng. Không có tiền thì trả bằng gạo. Vậy nhưng, kết thúc mùa rèn chừng 1 tháng, bố để dành được cả triệu đồng. Thời điểm đó, đây là số tiền rất lớn để gia đình nuôi chúng tôi ăn học. Sau này, công cụ lao động bán phổ biến nên người dân mua về dùng, vừa rẻ vừa nhanh. Thế nhưng, nhiều người vẫn mang đồ mới mua tới nhờ ông già tôi làm thêm cho sắc hay sửa lại theo ý thích”.

Lò rèn của già làng Hmêh thỉnh thoảng đỏ lửa là vì vậy. Thanh sắt nung đỏ dưới sức nóng của than hồng phản chiếu trong đôi mắt tinh anh của người nghệ nhân già là giây phút ông quên hết mọi thứ xung quanh. Người đàn ông gần 80 mùa rẫy đã yếu đi nhiều nhưng những nhát búa vẫn luôn dứt khoát trên đe. Ông nói rằng, mỗi dân tộc có cách sử dụng công cụ lao động riêng. Tập quán sản xuất, sinh hoạt của người Bahnar gắn liền với những công cụ sản xuất đặc trưng mà đồ bán sẵn không dễ đáp ứng.

Nghề rèn của người Bahnar. Thực hiện: HOÀNG NGỌC

Có thể bạn quan tâm

Nhớ khói đốt đồng

Nhớ khói đốt đồng

(GLO)- Mỗi khi tiết trời chuyển mình vào hạ, tôi lại chộn rộn một nỗi nhớ không tên. Tôi nhớ quê, nhớ cánh đồng, nhớ mùi khói đốt đồng lan trong gió chiều nhè nhẹ. Đó là mùi của đất, của nắng, của thời gian và tuổi thơ nơi đồng bãi.

Xây dựng hồ sơ nghệ nhân tạc tượng: Gìn giữ, trao truyền vốn quý

Xây dựng hồ sơ nghệ nhân tạc tượng: Gìn giữ, trao truyền vốn quý

(GLO)- Là đại diện của nền điêu khắc dân gian Tây Nguyên, tượng gỗ mang giá trị biểu đạt cao về đời sống và quan niệm thẩm mỹ của đồng bào dân tộc thiểu số. Tại TP. Pleiku (tỉnh Gia Lai), một hồ sơ nghệ nhân tạc tượng đã được xây dựng với mong muốn gìn giữ và trao truyền vốn quý di sản.

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh Gia Lai

(GLO)- Nhiều lần đến tham quan Bảo tàng Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng tỉnh Gia Lai), nhà giáo Tạ Chí Tào rất tâm đắc với những hiện vật thể hiện tấm lòng của người dân Tây Nguyên đối với Bác. Vì vậy, ông đã quyết định trao tặng một số hiện vật liên quan đến Bác Hồ mà mình đã sưu tầm cho Bảo tàng tỉnh.

Bên chiếc cầu thang nhà dài

Bên chiếc cầu thang nhà dài

(GLO)- Ngày trước, khi đến buôn Đôn (Đắk Lắk), tôi được ngắm nhìn những ngôi nhà dài bằng gỗ lâu niên của người Ê Đê đẹp đến nao lòng. Ấn tượng đầu tiên là 2 chiếc cầu thang dẫn lên nhà sàn còn in đậm vết thời gian.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Giữ “hồn trà” trong từng dáng ấm

Giữ “hồn trà” trong từng dáng ấm

(GLO)- Không ít người vừa mê trà vừa có thú sưu tầm ấm. Với họ, chiếc ấm không chỉ để pha trà mà còn là bạn tri âm, lặng lẽ đồng hành trong từng cuộc trà. Họ “dưỡng ấm” như nâng niu một thú chơi đầy tinh tế.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Từ trong câu ca nghĩa tình

Từ trong câu ca nghĩa tình

(GLO)- Trước việc Bình Định-Gia Lai chuẩn bị về một nhà, chuẩn bị một hành trình mới của đất nước, địa phương và cá nhân, người viết chợt nhớ… chuyện xưa, “cố tình” tìm mối liên hệ với những điều nhỏ nhặt.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.

Nẻo về tháng Tư

Nẻo về tháng Tư

(GLO)- Bước chân trên dải biên cương một ngày tháng Tư nắng đượm, tôi thốt nhiên nhớ tới mấy câu thơ của Nguyễn Bình Phương: “Những cột mốc vùng biên bóng trải xiêu xiêu/Dãy núi oằn lên từng nhịp thở”.