Mưu sinh đầu nguồn lũ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Năm nay nước lũ về sớm hơn mọi năm nhưng nguồn lợi thủy sản lại khan hiếm khiến cuộc sống người dân trở nên chật vật.

Đồng xa khan hiếm

Cánh đồng đầu nguồn lũ giáp biên giới Campuchia nước ngập mênh mông, đây là cơ hội để người dân đánh bắt cá mưu sinh. Đầu tháng 9, phóng viên theo chân ông Nguyễn Văn Út ở thị trấn Tịnh Biên (Tịnh Biên, An Giang) nơi đầu nguồn lũ sang Campuchia bắt cá. Vào sáng sớm, từ kênh Vĩnh Tế trên chiếc ghe gỗ cũ kỹ gắn máy Honda 5 ngựa băng qua cánh đồng mênh mông nước. Chạy hơn 1 km là đến địa phận nước bạn Campuchia, thuộc huyện Kiri Vong, tỉnh Tà Keo. Tiếp qua 2 trạm kiểm soát biên phòng của Campuchia rồi chạy dăm cây số là đến dớn của ông Út.

 

Ông Út (bìa phải) dở dớn bắt cá.
Ông Út (bìa phải) dở dớn bắt cá.

Đến nơi, ông Út nói: “Cá từ bên này đổ về Việt Nam, nếu ở đây không có cá nữa thì làm gì đồng nhà có cá”. Nói xong, ông nhìn bốn bề sông nước bảo: “Tôi thức từ 2 giờ sáng sang đây dở dớn một đợt rồi, dàn dớn dài hơn 2 cây số bắt chưa được chục ký cá linh và cá tạp”. Ông tiếp: “Bây giờ cá khan hiếm, ngày được vài chục ký là mừng. Nghề này khô áo ráo tiền, nên chẳng dư giả  gì”, ông Út than thở. Để được sang đây đặt dớn, vào tháng Tám ông đã đóng tiền cho lực lượng chức năng bên Campuchia 150 triệu đồng, ông Út cho biết.

Bắt đầu dở dớn đầu tiên. Ông Út ở phía sau lái ghe thò tay xuống nước mò lấy sợi dây buộc đáy dớn vào cây để mở ra rồi kéo lên đưa cho người trước mũi là anh Trung (làm thuê cho ông Út) rũ ráo nước. Sau đó, ông Trung dở đáy dớn cao khỏi mặt nước, bên trong dính được chừng nửa ký cá linh và cá tạp (lòng tong, tép, cua…). “Sống bằng nghề này ráng mà đeo chứ mỗi ngày mỗi khó”, ông Út than thở. Sau dớn thứ nhất, đến dớn thứ hai và nhiều dớn khác, cách nhau vài chục mét, lượng cá dính dớn không nhiều hơn.

Dở gần hết dớn của ông Út, gặp ông Trần Hữu Hoàng cùng con trai cũng loay hoay dở dớn. Ông Hoàng cũng than, thức từ nửa đêm đến giờ mà được vài ký cá tạp. Ông Hoàng năm nay 38 tuổi, gắn bó với nghề câu lưới hơn 25 năm ở xứ này. Ông kể, khoảng 7 năm trước, con cá linh đổ khô trong ghe bán cho cá mồi, bữa 1 - 2 tấn nhưng giờ kiếm đỏ mắt.

Theo lời ông Hoàng, năm nay làm tối ngày chưa khi nào được 100 kg. Hôm nào vô con nước nhiều lắm cũng tầm 60 kg là cùng. Ngày thường khoảng 10kg đến 30kg. “Muốn bắt con cá không phải chuyện dễ, có khi lặn 2 - 3 thướt nước, bất kể ngày đêm nhức lỗ tai dữ lắm. Nhiều lúc đêm hôm sóng gió không giăng câu lưới, ở nhà chịu đói chứ không dám ra đồng vì chìm ghe dễ chết. Ở đây tụi tôi là dân trong nghề, lội giỏi nhưng cũng cố lắm là bơi khoảng 1 km sẽ đuối vì sóng đánh vào mũi không thở được”, ông Hoàng tâm sự.

Bên hiên nhà cặp mé sông vót cây chằng đáy dớn, ông Lê Văn Xíu, 70 tuổi ở thị trấn Tịnh Biên người gầy nhom, đầu tóc bạc trắng đã gắn bó với nghề này hơn 30 năm. Năm nay gia đình ông đóng 40 triệu đồng để sang đây mua đồng đặt dớn. Ông Xíu chia sẻ: “Năm nay làm ăn khó lắm. Làm được tháng nhưng chưa lấy lại vốn. Đêm hôm bán được 500.000 đồng  đủ trả tiền góp và tiền ăn”.

Nói về những ngày đầu qua Campuchia đặt dớn, ông kể, sang đó không đóng tiền sẽ bị bắt, nếu mình bị bắt phải đóng tiền phạt, làm bị phạt riết chịu không nổi. “Hễ mình làm ăn uy tín, đóng tiền đàng hoàng thì không ai bắt bớ gì cả chứ còn không thì… thua”.

Đồng nhà cạn kiệt

Chạy dọc theo các cánh đồng mênh mông nước giáp biên giới Tây Nam bắt gặp cảnh người dân nhộn nhịp đánh bắt thủy sản. Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là mặc dù lũ về sớm nhưng năm nay cá và các sản vật khác cũng lèo tèo, lác đác. Đang chài lưới, ông Trần Văn Lộc, 45 tuổi ở xã Phú Hữu (An Phú, An Giang) cho biết, hơn tháng nay, hằng ngày ông chài cá, đặt lợp ở đồng nhà kiếm sống đủ đắp đổi qua ngày.  

Dọc theo bờ sông Sở Thượng, ranh giới giữa Việt Nam với Campuchia, thuộc xã Thường Thới Hậu A (Hồng Ngự, Đồng Tháp) không còn bắt gặp cảnh xe chở cá linh chạy nhộn nhịp như nhiều năm trước. Ông Lê Văn Huy, Trưởng ấp Bình Hòa Thượng (xã Thường Thới Hậu A) nói rằng, năm nay cá ít nên nhiều người còn cất đáy trong nhà để xem tháng sau có cá về hay không mới đặt. Còn ông Ba Kiệt ở ấp Bình Hòa Thượng đấu thầu đặt hai miệng đáy và thuê 4 công nhân làm nhưng cả tháng nay cá ít, lỗ nên ông cho nghỉ 2 người, còn lại 2 người làm cầm chừng. Ông Ba Kiệt cho biết, trước đây mỗi lần lưới thu vài trăm kg là chuyện nhỏ nhưng giờ đó là giấc mơ. Ông Trần Hồng Phúc, Chủ tịch UBND xã Thường Thới Tiền (Hồng Ngự) thông tin, trước đây, người dân chủ yếu sống bằng nông nghiệp. Xã có 12.000 dân ở độ tuổi lao động, trong đó, có hơn 8.000 người đi nơi khác làm thuê. Số lao động trong các ngành nghề nông nghiệp chiếm 40%.

Trắng đêm hái điên điển

 

Người dân ở cù lao Bảy Trúc hái bông điên điển.
Người dân ở cù lao Bảy Trúc hái bông điên điển.

Cù lao Bảy Trúc thuộc ấp Phú Hiệp, xã Phú Hữu, huyện An Phú, nơi ngập sâu nhất ở An Giang. Phóng viên Tiền Phong có mặt ở cù lao này chứng kiến cảnh người dân vùng rốn lũ mưu sinh giữa bốn bề nước bao quanh bằng nghề hái bông điên điển giữa đêm khuya.

Sau 22 giờ, là lúc người dân cù lao Bảy Trúc bắt đầu ra đồng. Mỗi người với chiếc đèn đội đầu, bơi xuồng lần theo những gốc điên điển trong ánh sáng chập chờn. Bà Lê Thị Phòng, năm nay 54 tuổi đứng trước mũi xuồng nhấp nhô bơi xuồng ra cánh đồng cách nhà vài trăm mét rồi nhè nhẹ hái từng bông điên điển. Bà cho biết, điên điển hái ban đêm để đến mờ sáng thương lái tới nhà mua. Hái mỗi đêm khoảng 3 - 4 kg, bán với giá 12.000 đồng/kg, ngày kiếm vài chục ngàn dành dụm lo cho con cháu ăn học. “Nhà nào cũng hái nên ai cũng phải trồng chứ không còn mọc hoang như xưa nữa”, bà Phòng nói. Còn bà Đinh Thị Bích Phường bày tỏ: “Nghề này cực lắm vì phải làm suốt đêm, nếu hôm nào nghỉ thì hôm sau bông tàn”.

 Ông Nguyễn Văn Thặng tiết lộ, điên điển hái vào ban đêm còn giữ được hương thơm và vị ngọt nên bán được giá cao hơn bông nở. “Nghề này thức đêm cực lắm. Nhiều lúc tay vít cây xuống cứ nghĩ ngắt bông nhưng thực tế ngắt đọt do buồn ngủ”, ông Thặng kể.

“Ốc đảo” hiếu học

 

Trẻ em ở cù lao Bảy Trúc đi học về.
Trẻ em ở cù lao Bảy Trúc đi học về.

Ở cù lao Bảy Trúc xung quanh bao bọc bởi nước lũ, nơi người dân hay gọi “ốc đảo” thì việc đi lại, học hành không còn con đường nào khác phải tự bơi xuồng, đối mặt với những hiểm nguy khi gặp nước xiết, giông gió… Tuy nhiên, những khó khăn ấy không làm cho trẻ em ở đây nản lòng. Tan giờ học buổi chiều, hàng chục em học sinh tập trung tại bến đò trong cơn mưa tầm tã, tay xách cặp, cầm áo phao ướt sũng rồi lần lượt bước xuống đò về nhà. Sau khi kiểm tra đủ học sinh, chủ đò cho rời bến chạy khoảng 2 cây số là đến cù lao. Em Lê Thị Thu Ngân, học lớp 6, trường THCS Phú Hữu nói: “Đò này mỗi ngày đưa 4 lần, em đi không tốn tiền lại an toàn và ba mẹ cũng không phải lo đưa đón. Bản thân em mong muốn được đến trường để sau này có việc làm ổn định phụ giúp gia đình”.

Dù sống ở khu vực khó khăn nhưng nhiều gia đình ở xứ cù lao này vẫn quyết chí nuôi con đến trường. Điển hình như gia đình ông Huỳnh Minh Trưng có 3 người con đỗ đại học.  Ông Trưng cho biết, dân ở đây nghèo khó lắm nên nuôi con ăn học rất cực khổ nhưng vẫn quyết tâm lo cho con ăn học đàng hoàng.

Anh Huỳnh Phước Hưng tốt nghiệp đại học ngành Kinh tế nông nghiệp ở Cần Thơ và hiện làm việc cho một công ty cũng tại Cần Thơ có dịp về thăm nhà, kể: Những năm học phổ thông, lũ lớn đi học bơi xuồng gặp giông gió phải kiếm bụi cây trốn đợi yên ắng mới bơi về. “Nhiều hôm nước chảy xiết, xuồng bơi chẳng được. Bỏ một buổi học khóc đỏ mắt. Chuyện đi học bơi xuồng bị chìm là chuyện thường. Khổ thế mình lại càng quyết tâm học giỏi để sau này có việc làm ổn định, thoát nghèo”, anh Hưng chia sẻ. 

Hòa Hội/tienphong

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null