Mưu sinh bãi ngang: Khí chất làng biển

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Lao động cật lực, đánh bắt đủ nghề nhưng vì sao ngư dân làng biển bãi ngang mãi nghèo khó đến như vậy? Câu hỏi cứ ám ảnh tôi trong những ngày rong ruổi cùng ngư dân dọc dài miệt biển Quảng Bình.
 
Một góc bờ biển bãi ngang Hải Ninh. ẢNH: T.Q.N
Trắng đêm trên xuồng
Hết thời hạn cách ly xã hội vì dịch bệnh Covid-19, tôi về xã biển bãi ngang Hải Ninh, H.Quảng Ninh (Quảng Bình) để làm... ngư dân một đêm. Được anh Trương Văn Hoành gật đầu cho đi theo xuồng vào chiều tối, tôi mừng như vớ được vàng dù nhiều chướng ngại đang trước mặt như: xuồng nhỏ, không có mái che, trời lại đang bấc, sóng cấp 3 - 5 và biển có thể nổi sóng bất cứ lúc nào.
Nói không sợ thì không phải, nhưng nghiệp rồi, không đi không được, từ khi mười mấy tuổi chúng tôi đã lên thuyền đánh bắt

Anh Trương Văn Hoành

Hơn 16 giờ chiều, vợ và con trai của anh Hoành gánh lương thảo, dầu đèn xuống chất lên xuồng rồi cùng xoay xuồng từ bờ xuống nước. Anh Hoành quay máy nổ bành bạch, giữ bánh lái, mắt ngước nhìn phía trước để tìm lối ra bởi nước đang xuống cạn. 
Chiếc xuồng lắc lư, chao đảo vượt qua từng đợt sóng vỗ vào bờ trắng xóa. Tôi ngồi đầu mũi nên bị sóng hất tung người lên rồi thả xuống liên tục. Nước văng lên trùm ướt cả mui thuyền. Xuồng theo hướng nam thẳng tiến. Chạy một lúc trời bỗng nổi gió, sóng to cỡ cấp 4 - 5 nên thuyền cứ bị dồi dập liên hồi.
Chạy gần 1 tiếng đồng hồ, anh Hoành giảm ga, sửa soạn giạ (một loại lưới) thả xuống biển bắt đầu đánh. Tôi giúp anh giữ đe cho cân bằng. Thả giạ xong, anh chỉnh ga cho xuồng chạy với tốc độ khoảng 2 - 3 hải lý/giờ. Cứ thế, xuồng chầm chậm chạy dọc theo lọn nước ven bờ.
Biển đêm, 2 người ngồi cạnh đủ thấy nhau mờ mờ. Tôi hỏi: “Anh đi một mình cả đêm trên biển vậy không sợ ư?”, anh Hoành bảo: “Nói không sợ thì không phải, nhưng nghiệp rồi, không đi không được, từ khi mười mấy tuổi chúng tôi đã lên thuyền đánh bắt. Ngày trước hay bị lật xuồng do dự báo thời tiết bị chênh, khi lật nếu có ai thấy cứu thì may mắn, còn không phải tự bơi vào bờ”... Câu chuyện của chúng tôi bị đứt đoạn bởi tiếng máy xuồng nổ đinh tai và mùi dầu nồng nặc từ ống khói của máy phả thẳng vào mặt.
 
Anh Hoành kéo lưới trong đêm tối
23 giờ 30 phút, anh Hoành tắt máy, kéo giạ lên đầy ghẹ mặt trăng, tôm. Sau khi thả giạ xuống lại biển, chúng tôi tiến hành phân loại ghẹ, tôm lớn, tôm nhỏ và cá, mực để ra từng rá riêng; sứa thì vứt lại xuống biển. Làm một lúc, tay tôi đã ngứa khó chịu vì ghẹ, tôm chích và sứa.
Đêm, anh Hoành cứ chong mắt về phía trước, lúc đảo sang hai bên quan sát để tránh va chạm xuồng khác và khỏi quấn giạ lẫn nhau. Chúng tôi kéo mẻ giạ thứ hai lúc 4 giờ hơn của ngày hôm sau.
Xuồng cập bờ lúc 4 giờ 30 phút. Trên bờ, vợ con của anh đợi sẵn để đón xuồng, phân loại tôm ghẹ rồi mang đi chợ bán. Thời điểm này, bờ biển tấp nập tàu xuồng vào. Trải qua một đêm với hơn 30 hải lý, chúng tôi chia tay nhau bằng 4 con mắt lờ đờ; anh Hoành ngủ lấy sức để chiều tiếp tục hành trình kiếm cơm trên biển.
Lời nguyện cầu trước biển
Cũng như anh Hoành, ngư dân bãi ngang Hải Ninh ai nấy quần quật đánh bắt. Trời tờ mờ sáng, tôi gặp ngư dân trẻ Nguyễn Văn Phong vội vàng chuyển đồ xuống bờ rồi thay bình ắc quy của xuồng do vợ Trương Thị Hoàn mang xuống để kịp quay ngược ra lại biển xúc ruốc. Xuồng chồng rời đi, chị Hoàn mới yên tâm quay lên. Chị đặt bình ắc quy một đầu, tôm cá một đầu rồi gánh về nhà. Dáng chị gầy nhom, tưởng như oằn cong trên cát.
Tầm giữa buổi sáng, khi tôi đến nhà thì Phong đã trở về và đang nằm ngủ lấy sức; chị Hoàn cũng bán xong mớ tôm, ghẹ về. Gia đình Phong đang tá túc tạm bợ trong “ngôi lều” xây bằng bờ lô rộng chừng 25 m2 trên vườn nhà của bố mẹ. Cát trắng ngoài vườn hắt vào ngay mép cửa.
Lấy nhau mấy năm trời, sinh được 2 người con nhưng nay vợ chồng Phong vẫn chưa làm nổi ngôi nhà để ở. “Biển nhìn vậy chứ không ai biết trong lòng có gì. Đánh bắt ngày có ngày về không”, chị Hoàn vừa đong đưa cái võng kẽo kẹt vừa thở dài. Khốn khó khiến vợ chồng Phong già nua hơn tuổi rất nhiều.
Nghe chị Hoàn nói, tôi nhớ đến hình ảnh 3 khuôn mặt buồn xo đi trên xuồng của anh Trương Văn Phu trở về trắng lưới; hay như xuồng của ông Nguyễn Văn Lương vỏn vẹn có 1,5 kg mực cơm. Biển khi có khi không, nhưng tiền sắm xuồng, ngư lưới cụ, dầu đèn, thực phẩm thì cố định phải chi. Và hiếu hỷ, liên hoan cũng tiêu tốn không ít tiền bởi người Hải Ninh nhiều anh em bà con, hàng xóm và luôn sống tình cảm, đoàn kết; có gia đình mất cả chục triệu đồng một tháng. Vậy nên ngư dân Hải Ninh mãi loay hoay trong vòng xoáy tiền bạc.
 
Cuộc sống của ngư dân bãi ngang luôn gắn với biển
Khó khăn đấy nhưng ngư dân bãi ngang chẳng ai có suy nghĩ bỏ nghề. Đó là khí chất người làng biển. Trẻ con bãi ngang chập chững bước đi đã được theo mẹ ra biển đón cha; đến khi lên 5 lên 10 đã lên xuồng theo cha ra khơi. Lớp cha đi trước, lớp con theo sau; thế hệ này nối tiếp thế hệ kia bám biển. Đàn ông kẻ biển lên thuyền mang theo lo lắng, hy vọng, chờ đợi của vợ con ở nhà.
Được mất, no đói cả gia đình phụ thuộc vào chuyến biển. Vì vậy, khi biển có thì ngư dân cật lực làm. Như vợ chồng ông Mai Văn Cọi và Ngô Thị Bền ở thôn Tân Hải. 4 giờ sáng ông Cọi dậy đi giạ ruốc; khi đầy xuồng, ông mang vào bờ cho bà Bền gánh về phơi khô rồi ông quay xuồng đi tiếp chuyến nữa đến xế trưa mới vào.
Như ông Hoàng Văn Tản, đã 74 tuổi rồi mà vẫn chịu khó ra biển xúc ruốc mấy tiếng đồng hồ. Gặp tôi, ông hồ hởi khoe thành tích vừa xúc được 3 yến và bán ngay tại xuồng với giá 180.000 đồng. “Chừng đó đủ thân già này sống rồi chú à, mong chi hơn nữa”, ông Tản nói rồi cười sảng khoái.
Rời những miền biển bãi ngang, tôi nguyện cầu những nơi ấy sẽ thay đổi; công sức trên biển sẽ được nâng niu, trân trọng hơn chứ không phải như con dã tràng xe cát biển Đông luôn hòa không khi sóng vỗ. Và biển luôn trù phú để cuộc sống ngư dân ngày một khấm khá hơn, để không còn những hình ảnh như chị Hoàn gánh cá lên bờ lay lắt mong manh trước gió và cát.

Theo báo cáo tổng kết khai thác cá vụ bắc năm 2019 - 2020 của Sở NN-PTNT Quảng Bình thì nguồn lợi vùng biển ven bờ bị suy giảm. Thời gian tới sẽ điều tra trữ lượng nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ và vùng lộng, làm cơ sở xác định hạn ngạch giấy phép khai thác thủy sản tại vùng biển ven bờ và vùng lộng để cấp phép cho tàu cá; ban hành quy chế quản lý hoạt động khai thác thủy sản tại vùng nước ven bờ và vùng nội địa trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Trương Quang Nam (Thanh Niên)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null