Muối ăn ở buôn làng Tây Nguyên xưa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Trước kia, ở vùng cao, muối ăn rất khan hiếm và rất đắt nên không phải ai cũng có tiền mua. Một vốc muối thời bấy giờ có giá bằng một con gà, còn một gùi muối nhỏ có thể đổi được một con trâu lớn. Chính vì vậy, muối được cất giữ như của hiếm trong nhà. 
Muối tro từ núi rừng
Thời xa xưa, đồng bào miền núi đã có cách làm muối tro. Hằng năm, sau khi thu hoạch lúa mùa, đồng bào thường nghỉ ngơi 1 tháng. Thời điểm này, họ thường rủ nhau đi rừng, đi suối kiếm cá phơi khô hoặc vào rừng làm muối tro để dành ăn cả năm. Bà con đến rừng le hoặc lồ ô, chọn những cây non vừa 1 năm tuổi hạ xuống, bỏ phần gốc, ngọn và lá, đoạn thành từng khúc, chất đống rồi nhóm lửa đốt cho cháy trụi thành tro. Chờ cho đống tro thật nguội, bà con đem bỏ vào chiếc gùi có lót lớp lá chuối tươi và bảo quản thật cẩn thận để dành ăn cả năm.
Khi nấu ăn, bà con lấy một bát muối tro đổ vào ống tre có đục lỗ nhỏ li ti nơi đáy. Sau đó đổ nước lã vào ống đựng tro cho nước tro rỉ ra từ lỗ phía dưới đáy ống thì chờ lấy nước tro lọc cho thật trong. Nước tro có vị mặn như muối nên đồng bào dùng để nêm và nấu thức ăn.
Chuyện làm muối tro thời trước từng được nhà văn Nguyên Ngọc nhắc đến trong tiểu thuyết “Đất nước đứng lên”. Trong tác phẩm, Anh hùng Núp cũng đã từng cùng bà con dân làng vào rừng đốt cỏ tranh, nứa, lồ ô để lấy muối tro về ăn thay muối trong những ngày kháng chiến đói cơm lạt muối. Muối tro cũng dùng để hầm xương, da trâu, da bò cho mau chín rục hay dùng nấu canh ăn để xổ giun, sán. Đặc biệt, đồng bào thường dùng nguyên liệu này để đánh nước nhuộm chỉ dệt vải. Khi nấu lá cây, rễ cây để chế biến thuốc nhuộm vải, họ bỏ ít muối tro vào làm cho dung dịch thuốc nhuộm thêm sánh màu. 
Voi là phương tiện vận chuyển giúp đồng bào miền núi đi xa buôn bán, trao đổi, hình thành “con đường muối”. Ảnh: Jean-Marie Duchange
Voi là phương tiện vận chuyển giúp đồng bào miền núi đi xa buôn bán, trao đổi, hình thành “con đường muối”. Ảnh: Jean-Marie Duchange
Hạt muối ăn mặn mà từ biển
Các dân tộc Cơ Tu, Tà Ôi, Vân Kiều, Pa Kô ở các tỉnh miền Trung Việt Nam có mối quan hệ thân thiết với những người đồng tộc đang sinh sống tại nước bạn Lào. Họ thường cùng nhau trao đổi, buôn bán lâm thổ sản, vải vóc, nhạc cụ như cồng chiêng, mắm muối... Trong quá khứ đã từng hình thành, tồn tại “con đường muối” từ đồng bằng lên vùng núi cao-nơi cư trú của các dân tộc trên dải Trường Sơn, Bắc Tây Nguyên và xuyên tận qua Lào.
Đồng bào Tây Nguyên xưa kia thường dùng voi nhà vượt núi xuyên rừng dài ngày đến vùng giáp ranh hay đến các chợ vùng thấp để mua các vật dụng, nhu yếu phẩm, đặc biệt là muối ăn. Những chuyến đi buôn bán, trao đổi dài ngày, ngủ đường, ngủ ở làng buôn lạ nhiều đêm được nói đến trong thơ ca dân gian của người M’Nông: “Du năng bich tâm bon Rđê/be năng bích tâm bon Mbuăn/Puăn năng bich tâm bon Bukok/P oh năng bich Bon Briăng Vai”(Tạm dịch: “Một đêm ngủ tại bon Êđê/Ba đêm ngủ tại bon Mbuăn/Bốn đếm ngủ tại bon Bukok/Bảy đêm ngủ tại Bon Briăng”).
Vì là mặt hàng quý hiếm nên muối ăn được bà con để dành ăn dần, sử dụng một cách dè xẻn. Muối còn dùng để trao đổi lương thực, thực phẩm, vật nuôi, đồ dùng, nhu yếu phẩm trong nội bộ dân tộc và các làng lân cận.
Có nhiều cách bảo quản, chế biến muối. Khi mua về, họ lấy chiếc gùi nhỏ, bên trong lót lớp lá rồi đổ muối vào gùi. Họ còn chế thêm nước cơm cho muối tan chảy ra và kết dính vào nhau. Sau đó gùi muối được treo lên giàn bếp cho khô ráo. Để lâu ngày muối khô đóng thành một cục to, muốn lấy ăn phải dùng vật cứng cào muối rồi hốt ra từng nắm để ăn.
Cách bảo quản này giúp tiết kiệm muối, bảo quản được lâu ngày. Mỗi gùi muối gia đình ăn được vài năm, khi nào hết mới mua lại. Quý hiếm là vậy nhưng thời chiến, đồng bào vẫn san sẻ muối ăn cho bữa ăn của bộ đội, cán bộ ở vùng căn cứ cách mạng. 
Từ chỗ là gia vị chính hiệu núi rừng, sau này muối tro được thay thế bằng muối ăn từ vùng biển do người Kinh mang lên trao đổi, buôn bán. Vị mặn của muối thấm sâu trong văn hóa tộc người, hình thành nên những tập tục, ứng xử, nghệ thuật ẩm thực, những phong vị của đồng bào các dân tộc vùng Trường Sơn-Tây Nguyên.
TẤN VỊNH

Có thể bạn quan tâm

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

(GLO)- Đền thờ Hai Bà Trưng là di tích quốc gia đặc biệt, tọa lạc tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội. Đây cũng là quê hương của Hai Bà Trưng-những nữ tướng anh hùng đã nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán.

Lễ Tế Xuân tại đình làng An Mỹ

Lễ Tế Xuân tại đình làng An Mỹ

(GLO)- Ngày 9-3, tại đình làng An Mỹ (thôn 2, xã An Phú, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai) diễn ra lễ cúng đình với các nghi thức long trọng tưởng nhớ công ơn của các vị tiền hiền có công khai hoang mở đất, lập làng và cầu quốc thái dân an.

 Linh thiêng lễ cúng Quý Xuân tại An Khê. Ảnh: Ngọc Minh

Linh thiêng lễ cúng Quý Xuân tại An Khê

(GLO)- Ngày 8 và 9-3 (nhằm mùng 9 và 10-2 âm lịch), Ban Nghi lễ đình An Khê tổ chức lễ cúng Quý Xuân tại An Khê trường và An Khê đình thuộc Khu di tích Tây Sơn Thượng đạo (thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai).

Ông Đinh Plih sắp xếp bộ cồng chiêng và các vật dụng sẵn sàng đem theo khi đi trình diễn, quảng bá văn hóa dân tộc Bahnar. Ảnh: N.M

Đinh Plih: Tự hào “vốn liếng” văn hóa Bahnar

(GLO)- “Ý nghĩa của công việc không phải chỉ nằm ở chỗ tiền bạc mà còn ở nhu cầu về tinh thần, biểu hiện của giá trị, một vốn liếng để tự hào”. Câu nói này thật đúng đối với ông Đinh Plih (xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai). Với ông, hạnh phúc đơn giản là bản thân được sống trọn với đam mê.

Sức sống của lễ hội Tây Nguyên

Sức sống của lễ hội Tây Nguyên

(GLO)- Hoa pơ lang thắp lửa cuối khu nhà mồ làng Pyang, thị trấn Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Nổi bật giữa lớp lớp nhà mồ cũ là 3 nhà mồ mới làm. Đó là những dấu hiệu mùa lễ hội giữa núi rừng Trường Sơn.

Lễ bỏ mả của người Bahnar ở Kông Chro

Lễ bỏ mả của người Bahnar ở Kông Chro

(GLO)- Từ 21 đến 23-2, làng Pyang (thị trấn Kông Chro, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai) tưng bừng tổ chức lễ bỏ mả-một trong những lễ hội lớn và đặc sắc nhất của người Bahnar Đông Trường Sơn

Gìn giữ giai điệu của đá

Gìn giữ giai điệu của đá

Trong dịp đầu xuân, tại chương trình trình diễn, trải nghiệm di sản văn hóa diễn ra ở Bảo tàng – Thư viện tỉnh, người dân và du khách có dịp thưởng thức những giai điệu của đá được trình diễn bởi nghệ nhân ưu tú A Thu (50 tuổi) ở thôn Đăk Rô Gia (xã Đăk Trăm, huyện Đăk Tô).

Sức sống từ lễ hội ở làng Kép 2 (xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh) khiến ngôi làng này trở thành điểm du lịch văn hóa hấp dẫn. Ảnh: M.C

Gìn giữ lễ hội để phát triển du lịch

(GLO)- Lễ hội Tây Nguyên không chỉ là sự kiện mang tính cộng đồng mà là “kho báu” cho du lịch. Đánh giá đúng thực trạng lễ hội trong các buôn làng để có giải pháp khai thác phát triển du lịch là vấn đề cần được tính đến.

Lễ báo hiếu: Thơm thảo tấm lòng con cái

Lễ báo hiếu, thơm thảo tấm lòng con cái

(GLO)- Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người Bahnar luôn nhắc nhau: “Phải kính trọng cha mẹ như mặt trăng, kính trọng ông bà như mặt trời”. Khi đã trưởng thành, con cái đều nghĩ đến việc tổ chức lễ báo hiếu cha mẹ (teh nhung ăn kră).

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

(GLO)- UBND tỉnh Gia Lai ban hành QĐ số 60/2024/QĐ-UBND quy định chi tiết tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” để hướng dẫn thực hiện, bảo đảm phù hợp với đặc thù văn hóa và tình hình kinh tế-xã hội của địa phương.

Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia vừa họp, bỏ phiếu thống nhất đề xuất Thủ tướng Chính phủ công nhận Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo là di tích quốc gia đặc biệt. Ảnh: Ngọc Minh

Chuyện làm hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo

(GLO)- Cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, những người làm công tác di sản văn hóa (như cách gọi ngày nay) của tỉnh Gia Lai-Kon Tum bắt tay vào việc thu thập thông tin để làm hồ sơ di tích đề nghị xếp hạng, trong đó có hồ sơ di tích Tây Sơn Thượng đạo.