Mùa cá cơm ở đây bắt đầu từ tháng 2 đến tháng 4 hàng năm. Cá cơm được đánh bắt gần bờ. Ngư dân xuất bến từ chiều hôm trước, đến sáng hôm sau cho ghe trở về.
Chỉ một phần nhỏ cá cơm được đem bán ở chợ, còn phần lớn dùng làm mắm hoặc phơi khô. Nghề làm cá khô từ tháng 3, khi trời bắt đầu nắng gắt. Cá cơm để dùng làm nước mắm thì ai cũng biết.

Ngoài ra, để dự trữ cho những hôm biển động, bão gió, người dân phơi cá cơm thật khô. Mỗi lần ăn lấy ra một nhúm nhỏ, ngâm sơ qua nước rồi rim lên.
Thời tiết se lạnh, ăn miếng cơm nóng với cá cơm rim mặn ngọt thì chẳng còn gì tuyệt bằng. Lúc này, cá cơm mới khô đều, thơm ngon. Thời chưa có tủ lạnh trữ thức ăn đông lạnh, cá tôm được mùa ăn không hết, phơi khô là cách dự trữ tốt nhất.
Lúc tôi đến, nắng đã giòn trên vai. Cái nắng tháng Tư phả vào tôi một ngày đầy rung mến trong những cần mẫn, sớm hôm tảo tần của bà con làng chài.
Ở đây, người ta đo mùa bằng độ phơi của cá cơm, nắng còn non, gió đổi chiều thì phơi chẳng được lâu. Phơi cá như chăm con mọn. Trưa chiều cá lên, hoặc rửa sạch rồi phơi, hoặc hấp sơ. Phơi cá cơm cũng phải có nghề. Tay quen thì cá nằm thẳng thớm, khô đều không rối. Tay lạ thì cá chồng nhau, nắng không lọt, bị sẫm màu.
Cá được rải lên khay lưới làm sao để không quá dày cũng không quá mỏng. Có người thạo nghề đến mức chỉ cần nhìn màu sắc là biết độ khô giòn của từng con cá cơm.
Giữa trưa, người ta lật cá cho đều mặt. Người khéo lắm mới giữ được cá khô mà không quá cứng, không quá mềm, thơm mà không tanh, ngọt mà vẫn đậm vị mặn mòi. Mỗi động tác nhẹ nhàng, chậm rãi, như thể sợ làm vỡ tan cả một mùa mong mỏi, ngóng trông.
Làng chài Nhơn Lý đang vào mùa cá cơm. Nếu người xứ núi xem thịt gác bếp như là đặc sản riêng có thì với người xứ biển những khay lưới được rải đều cá cơm để phơi đã trở thành mùa nhộn nhịp nơi đây.
Những chiếc khay lưới như dấu chỉ thời gian hiện diện, vốn đã là một phần của làng chài, của biển cả. Nhưng sao tôi vẫn lẩn thẩn nghĩ về những ngày xưa cũ. Khi khay lưới chưa xuất hiện, những bà, những mẹ còn lom khom rửa nong, cạo rêu, chẻ nan tre vá lại từng chỗ rách trước mỗi mùa cá phơi khô.
Hồi nhỏ, tôi vẫn thường thắc mắc với má về tên gọi cá cơm. Phải chăng vì dáng hình bé nhỏ hay vì loài cá này gắn bó với cuộc sống của ngư dân miền biển như bữa cơm hàng ngày nên được đặt tên như thế. Bà tôi thì vẫn kể về giai thoại tên gọi cá cơm, bắt nguồn có từ thời Nguyễn Ánh.
Chuyện rằng: Khi Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi, sức cùng, lương thực cạn kiệt, tàu thì lênh đênh, quân lính đói lả. Đứng trên chiến thuyền, Nguyễn Ánh ngửa mặt lên trời mà rằng: “Giang sơn thổ võ/Sơn đầu hải khẩu/Tiền hiền khai khẩn/Hậu hiền khai cơ/Trên bờ dưới nước/Nhờ các chư vị tạo khiến/Cho lương thực quân lính ăn vài ngày đến đất liền”.
Vừa dứt lời, hai bên mạn thuyền từng đàn cá nổi lên. Những con cá nhỏ nhưng cũng nhờ đó thay cơm mà kéo dài sự sống. Có lẽ cũng từ chuyện ấy mà có tên con cá cơm đến bây giờ.
Nếu trời nắng to thì cá cơm tươi chỉ cần phơi 1 ngày là đã đạt mức khô để đóng gói. Cá cơm tưởng nhỏ bé vậy mà khi được rải lên trên các khay lưới bỗng chốc trở thành thứ ánh sáng quyến rũ, thu hút bao ánh nhìn.
Người làng chài không gọi là “mẻ cá”, họ bảo nhau: “Hôm nay trời được mùa sáng”. Câu nói không phải về tiết trời mà là ngợi ca thứ ánh sáng mặn mòi nằm gọn trên những khay lưới xanh kia.
Phơi cá cơm không chỉ cần nắng mà còn để ý độ gió, cần sự chậm rãi, vừa phải. Nắng quá gắt, cá dễ rút nước nhanh mà không giữ được vị. Gió quá mạnh, cá dễ bay mất lớp muối phủ.
Những người phụ nữ quê tôi có đôi mắt biết dõi theo chiều gió, có đôi tay đo được độ giòn khô của những thân cá trong nắng chiều. Nhọc nhằn trên đôi vai cùng nắng là vậy, nhưng những người phụ nữ miệt biển Nhơn Lý này vẫn rưng rưng cùng nghề. Nếu một hôm nghỉ làm, với họ như thiếu một cái gì đó.
Tôi có thể mua khô cá cơm bất cứ lúc nào, trong siêu thị, ở chợ hoặc đặt online qua các nền tảng số. Nhưng nếu chỉ như vậy, làm sao có thể nghe mùi gió biển thổi ngang mái tóc má tôi, âm thanh rộn ràng của buổi trưa nơi bến cá. Làm sao thiếu đi cái dáng vẻ xốn xang khi chờ ăn cơm nóng với mẻ cá khô rim.
Thật lòng, chút tình đó, tôi chỉ nhận ra khi xa quê. Giữa phố thị nhiều sự lựa chọn, đôi lúc bắt gặp trong một quán cơm bình dân, đĩa cá cơm khô cháy cạnh, ăn với cơm trắng và chén nước mắm ớt mà rưng rức ký ức tuổi thơ. Bởi cái gốc gác thấm trong từng thớ biển, nên dù xa quê bao lâu, tôi vẫn giữ riêng mình chút mặn mòi chân chất, thật thà.
Ngoài kia, vài chiếc thuyền bắt đầu hành trình mới. Ở đây, lòng tôi bình yên như cánh thuyền vừa tìm về bến, như lấp lánh ánh bạc trong giấc mơ khay lưới cá cơm bàng bạc trong nắng tháng Tư này.

Mùa điều nơi biên viễn
