Lệ hồi tỵ độc đáo của Việt Nam từng áp dụng rất nghiêm ngặt dưới triều Nguyễn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Lệ hồi tỵ là từ Hán Việt, có nghĩa là tránh đi, được đặt ra để ngăn chặn tình trạng nhiều người trong một đại gia đình làm chung dễ dẫn đến liên kết nhũng nhiễu người dân, được thực hiện rất nghiêm ngặt dưới triều Nguyễn.

 Một vị quan lại dưới triều Nguyễn. Ảnh: Ảnh: Nguyentl
Một vị quan lại dưới triều Nguyễn. Ảnh: Nguyentl


Dưới triều Nguyễn, lệ hồi tỵ được áp dụng rất chặt chẽ, cha con, anh em, họ hàng thân thích không được làm chung với nhau trong một nha môn hay một hạt, nếu triều đình không biết mối quan hệ giữa họ với nhau mà bổ về làm chung thì các đương sự phải tự khai để đổi một người đi chỗ khác. Ở mỗi khoa thi, các quan chức được cử làm khảo quan mà có anh em hay con cháu dự kỳ thi đó thì cũng phải xin hồi tỵ.
 

Đội vệ binh dưới triều Nguyễn. Ảnh: T.L
Đội vệ binh dưới triều Nguyễn. Ảnh: T.L


Trong tác phẩm mới Xã hội Việt Nam thời Lê - Nguyễn (do Dtbooks và NXB Hồng Đức) vừa ấn hành, tác giả Lê Nguyễn kể: “Năm 1831, vua Minh Mạng định rằng các quan chức ở ngạch thông phán (tòng lục phẩm), kinh lịch (chánh thất phẩm) ở các trấn, nếu là người ở bản hạt, phải đổi đi qua một hạt khác để tránh vì tình riêng mà sinh ra những điều tệ hại. Năm 1836, nhà vua lại định rằng những quan chức làm ở một nha môn từ 3 năm trở lên phải được đổi sang nha môn khác; các thông lại, lại mục nguyên quán ở phủ huyện nào thì không được làm việc tại phủ huyện đó. Đến triều Thiệu Trị, năm 1844, nhà vua còn đi xa hơn, định rằng những họ hàng có tang phục ba tháng trở lên, những người là bố vợ, anh em ruột của vợ, chồng chị, chồng em của vợ đều phải hồi tỵ, không được làm chung với nhau tại một nha môn”.

Cũng theo sách đã dẫn: “Đến triều Đồng Khánh, năm 1887, triều đình định rằng các quan lại làm cùng một tỉnh hay một nha môn, những người có nguyên quán cùng một huyện mà lại có giao tình thân thiết thì được cho hồi tỵ. Trong cùng một bộ hay một tỉnh, nếu trong bốn ấn quan (quan lại có sử dụng ấn tín, từ chánh ngũ phẩm trở lên), có đến ba người xuất thân cùng một hạt thì những người này cũng phải hồi tỵ. Trong trường hợp có người cùng làm ở chung làng với mẹ hay vợ thì phải trình báo quan trên và đợi chỉ nhà vua định đoạt”.

Trong số các trường hợp đó thì nhà nghiên cứu Lê Nguyễn tiết lộ cụ Phan Thanh Giản được xem là một nhân vật tiêu biểu cho tinh thần “bất vị thân”. Khi cụ giữ tới chức Kinh lược sứ, hàm Hiệp biện Đại học sĩ, nhất phẩm triều đình nhưng các con trai cụ là Phan Liêm và Phan Tôn, dù tuổi đời đã trên dưới 30, vẫn không có một địa vị nào đáng kể trong xã hội.

 

Chân dung quan đại thần Phan Thanh Giản. Ảnh: T.L của nhà nghiên cứu Lê Nguyễn
Chân dung quan đại thần Phan Thanh Giản. Ảnh: T.L của nhà nghiên cứu Lê Nguyễn


Được biết, tại miền Nam trước 1975, thì lệ hồi tỵ trong ngành tư pháp khá cụ thể và rõ ràng, nếu như viên chánh án một tỉnh thụ lý một vụ án mà nguyên cáo hay bị cáo, nguyên đơn hay bị đơn có quan hệ huyết thống hoặc mối thâm giao với mình, viên chức này sẽ xin hồi tỵ, cơ quan tư pháp trung ương sẽ cử một chánh án khác ở nơi gần đó sang xét xử nội vụ. Nhờ đó, tránh được những tiêu cực xảy ra có thể gây bất bình trong dư luận.

“Vì vậy, dẫu có lệ hồi tỵ hay không thì vào thời nào và ở đâu cũng vậy, nếu để xảy ra những kẻ chỉ biết lạm dụng chức quyền, trọng dụng bọn dốt nát và xu nịnh, quay lưng ngoảnh mặt lại với người tài, sẽ mang trọng tội với lịch sử...”, tác giả Lê Nguyễn nhấn mạnh trong sách Xã hội Việt Nam thời Lê - Nguyễn.

Theo QUỲNH TRÂN (TNO)

 

Có thể bạn quan tâm

Ông từ giữ đình cứu sống cây đa cổ thụ

Ông từ cứu sống cây đa cổ thụ ở An Khê đình

(GLO)- Vô tình bị lửa “thiêu”, cây đa cổ thụ phía sau An Khê đình (Khu di tích Tây Sơn Thượng đạo, phường An Khê) suy yếu dần, có nguy cơ bị chết. Với tinh thần trách nhiệm cao, ông Ngô Văn Đường-Câu đình (người trông giữ, hương khói đình làng) đã cứu sống cây đa này.

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

(GLO)- Ông Rơ Châm Khir (SN 1954, làng Kênh, xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) không chỉ có đôi tay tài hoa vẽ những bức tranh sơn dầu, tượng gỗ dân gian đặc sắc, mà còn là già làng uy tín được cộng đồng tin tưởng.

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

null