Lá thư đặc biệt của cố Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Trần Văn Bình

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Được thu cách nay gần nửa thế kỷ, đó là một lá thư đặc biệt của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Bình (tên thường gọi là Đẳng)-nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai. Không chỉ chan chứa tình cảm, lá thư còn thể hiện niềm tin vô cùng mạnh mẽ và tràn trề hy vọng vào một ngày mai tươi sáng của đất nước: Nam-Bắc một nhà.
Bà Trần Thị Hòa và chiếc máy phát băng cũ trước bàn thờ ba má. Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ
Bà Trần Thị Hòa và chiếc máy phát băng cũ trước bàn thờ ba má. Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ
Tôi gõ cửa một căn nhà trên con đường nhỏ Trần Độc ở TP. Quy Nhơn (tỉnh Bình Định). Người con gái út của Anh hùng Trần Văn Bình (Đẳng) ra đón tôi. Chị tên là Trần Thị Hòa, sinh cuối năm 1954 nhưng được khai lại thành ngày 16-2-1955 để nhớ ngày mấy mẹ con chị cập Cảng Hải Phòng, sau một hải trình tập kết từ quê hương. Ba cưới má (bà Hồ Thị Chức) năm 1945 và sinh được 4 người con: anh Tài (1947), anh Tiến (1948), chị Nga (1952) và chị.
Chị kể, có 2 thứ không bao giờ quên khi sống ở miền Bắc hơn 2 thập kỷ. Đó là sự lạnh giá của mùa đông và nỗi nhớ ba. Ban đầu, chị chỉ biết ba mình đang “đi công tác” theo lời má. Lớn lên, qua thư và ảnh từ Gia Lai gửi ra, qua câu chuyện của những người miền Nam đến thăm nhà, chị mới thêm hiểu và càng thương ba nhiều hơn.
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Bình sinh ngày 5-9-1922, tại Nhơn Hậu, An Nhơn, Bình Định, tham gia cách mạng từ ngày 28-4-1945, vào Đảng ngày 9-11-1946, là 1 trong 134 cán bộ của tỉnh Gia Lai ở lại sau Hiệp định Genève 1954. Sau tháng 8-1955, ông là Bí thư Huyện ủy An Khê; từ năm 1959, ông là Tỉnh ủy viên; đến năm 1961 là Thường vụ Tỉnh ủy; năm 1963, ông là Phó Bí thư Tỉnh ủy. Từ năm 1964 đến 1967 và 1969-1974, ông là Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai (Khu ủy viên từ năm 1973). 20 năm không gặp lại vợ con (tập kết miền Bắc, năm 1955), ông mất ngày 19-4-1974, tại Krong, Kbang. 
Mặc dù hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, công việc bận rộn nhưng khi có thể, ba chị đều cố gắng viết thư. Nhiều thì 6-7 tháng 1 lá, còn thường thì 1, thậm chí vài năm, má con chị mới nhận được thư (đôi khi kèm theo quà) của ba. Phần lớn thư được chuyển trực tiếp qua những người ra Bắc công tác, chữa bệnh rồi thư cũng lại trở vào Nam theo đường bộ. Thư luôn chậm, vì vậy, không có cách nào tốt hơn là chờ đợi.
Theo má đi tập kết khi mới vài ba tháng tuổi, trong nhà, chị là người chưa từng biết mặt ba, chưa từng được nghe tiếng ba. Đến khoảng năm 1972, má chị nhận được cuộn băng cassette từ tay một đồng đội của ba. Đó là những âm thanh duy nhất và cũng là cuối cùng của ba mà mẹ con chị được nghe, sau gần 20 năm xa cách.  
Theo lời trong cuộn băng thì nó được ghi sau tháng 4-1972, khi ông Đẳng gặp người “anh cả trong gia đình Gia Lai trước đây”-ông Năm Vinh sắp ra Bắc công tác, mang theo máy ghi âm. Với dung lượng gần 25 phút, giọng của người “viết” lá thư âm thanh này khá chậm rãi và truyền cảm.
Sau lời mở đầu và những lời chúc, ông viết: “Mình thương yêu! Đến nay, vợ chồng ta xa cách đã 18 năm tròn. 18 năm tuy so với thời gian của sự nghiệp cách mạng thì không là bao nhưng so với con người thì đó là một thời gian khá dài. Tôi nhớ lại từ ngày chúng ta chia tay ở bến cảng Quy Nhơn. Ngày ấy, chúng ta còn đầu xanh tuổi trẻ. Ngày ấy, các con Hòa, Tiến, Nga còn rất bé bỏng. Thế mà nay, qua thư từ và hình ảnh của chúng nó gởi vào, qua thư của mình kể lại thì vượt quá sức tưởng tượng của anh. Thật là như một giấc chiêm bao!”.
Trước sự khôn lớn của con cái, người chồng, người cha, Bí thư Trần Văn Bình, người đang lãnh đạo phong trào cách mạng Gia Lai tâm niệm: “Càng vui mừng phấn khởi trước sự trưởng thành của con cái chúng ta, tôi càng thấm sâu công ơn của Đảng, của Chính phủ, của Bác, của nhân dân miền Bắc đã tận tình chăm sóc, dạy dỗ, giáo dục, nuôi nấng con cái chúng ta nên người (…). Tôi nghĩ cuộc đời của chúng ta không có gì bằng, không có gì phấn khởi, vui mừng bằng là con cái chúng ta, gia đình chúng ta cùng trưởng thành và lớn lên theo đà trưởng thành và lớn lên của cả dân tộc anh hùng của chúng ta”.
Từ đó, ông khẳng định: “Nghĩ như vậy, tôi đã tự xác định trách nhiệm của tôi trước Tổ quốc, trước dân tộc (...). Tôi chỉ lo làm sao để hoàn thành được mọi nhiệm vụ Đảng giao và sẵn sàng, kể cả sự hy sinh tính mạng mình để đóng góp một phần rất nhỏ bé vào trong thắng lợi chung của dân tộc. Và làm sao cho miền Nam được giải phóng, làm sao cho Tổ quốc chúng ta được thống nhất, cả đồng bào Nam-Bắc, cả gia đình chúng ta và riêng vợ chồng chúng ta mới có thể trở lại những ngày đầu gối tay ấp, tay bắt mặt mừng, chuyện trò và kể lại những nỗi nhớ thương trong bao năm xa cách. Ngày đó nhất định sẽ đến…”.
Dành cho vợ con những tình cảm chan chứa, ông cũng đồng thời động viên, nhắc nhở và tràn đầy hy vọng về tương lai sắp đến: “Mình thương yêu! Cuộc chiến đấu của chúng ta đã gần đến ngày thắng lợi. Chúng ta hãy đem hết sức mình góp phần vào trong thắng lợi chung đó, để nhanh chóng đem lại những ngày hội họp 2 miền và cũng là ngày gặp lại của gia đình chúng ta. Tình cảm vợ chồng, nghĩa cha con trong mười mấy năm qua không giấy nào viết hết được. Cũng như trong bản ghi âm này, cũng không thể nào tôi nói hết được. Tất cả những nỗi thương niềm nhớ ấy, bao nhiêu tâm tư, tình cảm ấy, chúng ta hẹn lại một ngày gặp nhau huy hoàng nhất, vui mừng nhất của cả dân tộc và của cả gia đình chúng ta”.
Cuối thư là những lời thăm hỏi ân cần của ông dành cho những người “bà con cật ruột”, những người đang công tác cùng vợ mình và: “Hẹn nhau sớm gặp lại ở miền Nam”. Bức thư của ông được kết bởi 2 dòng âm thanh đầy yêu thương:
“Gửi mình và các con nhiều cái hôn.
Tôi Trần Văn Bình, tức là Đẳng”.
Tham gia cách mạng từ năm 1945, vào Đảng năm 1946, hoạt động tại Bắc Tây Nguyên từ năm 1950, từng đảm đương vị trí chủ chốt trong Đảng bộ tỉnh Gia Lai giai đoạn chống Mỹ ác liệt, Bí thư Trần Văn Bình là một người tận tâm với công việc. 20 năm không gặp lại vợ con, hy sinh ngay tại căn cứ Krong, ông là người đã dành toàn bộ cuộc đời của mình cho cách mạng.
Lá thư âm thanh của ông còn đến ngày nay là một kỷ vật vô giá đối với gia đình và những người làm công tác bảo tồn, phát huy các giá trị lịch sử, văn hóa của địa phương.
NGUYỄN QUANG TUỆ

Có thể bạn quan tâm

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

null