Ký ức An Khê - Kỳ 3: Nơi đầu nguồn Đak HWay

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
(GLO)- Cuối năm 2006, tôi cùng bác sĩ Nguyễn Hữu Nam-nguyên Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh, anh Đinh Văn Niềm và nhà báo Lương Văn Danh, nay là Phó Tổng Biên tập Báo Gia Lai, trở về thăm bà con làng Bung. Bấy giờ, làng Bung đã được di dời, định canh định cư phía đầu nguồn Đak HWay, thuộc phần đất của xã Ya Hội, huyện Đak Pơ.

Chuyện ở làng Bung

Sông Đak HWay bắt nguồn từ dãy núi trên đỉnh đèo An Khê, nơi giáp ranh với huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Tuy là con sông nhỏ nhưng ngày trước, Đak HWay không bao giờ cạn nước, quanh năm nước trong veo, chảy lượn theo những cánh rừng nguyên sinh, hợp cùng các con suối trong vùng và đổ về sông Ba đoạn chảy qua huyện Kông Chro. Bà con làng Bung, nhiều người lớp lớn còn nhớ chúng tôi.

Nói đến làng Bung, tôi nhớ lại chuyện vui vui. Cái Tết hòa bình đầu tiên sau Hiệp định Paris 1973, lãnh đạo K8 chủ trương điều động đại bộ phận anh chị em ở phía trước về phía sau, bên Huyện đội cũng thế. Lãnh đạo cử tôi và anh T. đến làng Bung, trước là mời bà con đêm 30 đến cơ quan cùng chung vui liên hoan mừng hòa bình và văn nghệ, cồng chiêng đón Giao thừa, kết hợp mua, đổi, xin heo, gà, rau củ quả... để góp cho bữa tiệc liên hoan. Buổi trưa nắng gắt, làng vắng tênh, vài nhà chỉ có ông bà già và trẻ nhỏ.

Trong khi chờ các cháu đi gọi già làng về, chúng tôi vào một ngôi nhà sàn tạm bợ. Một cụ bà ra chào khách, bên liếp nhà sàn, một con gà mái ấp thấy động bỏ ổ bay vù ra, cục tác inh ỏi. Thấy vậy, anh T. mau miệng hỏi cụ bà, là muốn mua gà. Bà cụ bảo “ier-đe”, anh T. không hiểu ý cụ bảo là gà của người khác, không phải của nhà cụ, anh T. liền bảo, gà đẻ càng tốt, bao nhiêu tiền bán cho chúng con mấy con về cơ quan ăn Tết. Tôi nghe đoạn đối thoại của hai người mà không nhịn được cười.

Một góc xã Ya Hội (huyện Đak Pơ) ngày nay. Ảnh: Đức Thụy
Một góc xã Ya Hội (huyện Đak Pơ) ngày nay. Ảnh: Đức Thụy

Trở lại chuyện làng Bung, hôm chúng tôi về thăm, trên sàn nhà rông, những ghè rượu vơi, rồi lại đầy, đêm về khuya, lớp trẻ lần lượt ra về, chỉ những người già như chúng tôi còn “bám trụ” chuyện trò bao điều xưa cũ. Khi đó, làng Bung nằm bên dòng Đak HWay, phía hạ nguồn, còn cơ quan Huyện ủy K8 đứng chân phía đầu nguồn, cách nhau chừng vài giờ đi bộ đường rừng. Mối quan hệ giữa bà con dân làng và cơ quan chúng tôi rất tốt. Có tin tức gì về biệt kích, về tình hình ốm đau, đói lạt, chúng tôi chia sẻ cho nhau. Bà con săn, bẫy được thú rừng, có mì, bắp, bí, bầu... mới thu hoạch được cũng đem cho.

Làng Bung khi đó thuộc A9 (hay 16), K7 (tức Kông Chro ngày nay), còn bây giờ làng thuộc xã Ya Hội, huyện Đak Pơ. Làng định cư gần trụ sở xã Ya Hội, bên bờ con sông HWay, vùng đất khá bằng phẳng, phù sa do Đak HWay bồi lắng, đất đai trù phú, bà con chăm chỉ làm ăn nên đời sống khá giả. Các anh, chị ở An Khê thỉnh thoảng về thăm bà con làng Bung, riêng tôi vì công việc nên khó có dịp trở lại. Tuy thế, khi thấy tôi vào làng, nhiều người lớp lớn vẫn nhớ tên. Có một anh giao liên xưa ở làng này, tên Krọt, nhưng hôm chúng tôi về anh không có ở làng, tiếc là không gặp được đồng đội một thời bom đạn đã xa, nhưng nghe bà con nói anh vẫn khỏe mạnh thì mừng.

Năm tháng không quên

Bởi “vật đổi sao dời” nhiều quá, nên tôi dù cố gắng xác định trong đầu là nơi tôi bị thương vì vướng phải mang cung trên đường đi công tác, đâu đó gần khu vực làng Bung ngày nay, nhưng không thể xác định được vị trí cụ thể.

Hôm ở làng Bung, anh Đinh Văn Niềm vẫn còn nhắc lại, là hôm bị thương, tôi có bắn 2 phát súng, báo hiệu cho đồng đội, may có ai ở gần khu vực sẽ đến tìm tôi. Trong khi chờ đợi với suy nghĩ, chờ đợi may rủi, một con cheo to còn lờn vờn trước mặt tôi như thể trêu chọc người gặp nạn, tôi vẫn còn đủ sức hạ gục chú cheo bằng một phát súng AR-15/M16. Anh Niềm bảo, khi mọi người đến khiêng tôi về còn đem về theo con cheo, chị Trần Thị Tài nuôi quân đã thịt nó và nấu cháo cho tôi. Mũi mang cung xuyên qua đùi tôi, với những gì đã được “huấn luyện”, tôi không rút nó ra khỏi người, chỉ garo phía trên cầm máu, chờ thầy thuốc xử lý.

Sau khi xử lý vết thương, không biết anh Nam đã tiêm thuốc gì, mà tôi cảm thấy người lơ mơ, rồi dần chìm vào giấc ngủ. Trong chập chờn thức ngủ, tôi loáng thoáng nghe mọi người bàn, sẽ khiêng tôi vào trạm xá K7, ở đó có điều kiện tiện nghi hơn, sẽ cứu được chân tôi khỏi bị tật nguyền về sau này. Trong mơ màng, tôi nghĩ đến một Đoàn Minh Phụng tật nguyền, trở về quê với đôi nạng gỗ, không còn cha mẹ, không người thân, biết sẽ sống ra sao.

Sau này, tôi được nghe mọi người kể lại, sau khi kiểm tra vết thương chỉ bị phần mềm, anh Nam quyết định không chuyển tôi lên tuyến trên, mà anh đảm bảo sẽ chữa lành vết thương. Sau chừng một tuần chữa trị, tôi đã tự đi lại được. Mỗi khi có chuyện vui, tôi lại tìm về với anh Nam, nói lời cảm ơn anh, một thầy thuốc xứng đáng như lời dạy của Bác “Lương y như từ mẫu” và anh cũng coi tôi như một người em thân thích.

Khi đó, cơ quan huyện K8 đứng chân ở cạnh dòng HWay, một bên là vách núi cao, cây cối rậm rạp, phía còn lại là rừng non, trải dài dọc theo hai bờ sông HWay. Lán chị nuôi được các anh chị dựng bên mép nước, là một cái “ục” sâu, nước trong veo, những cây cà te cổ thụ che gần kín mặt nước. Cái “ục” đó là nơi mỗi trưa hè, mỗi chiều về muộn sau những chuyến công tác, sau những ngày lao động, tăng gia sản xuất, làm việc, học tập... là nơi bơi lội, nô đùa tắm táp, giặt giũ của chúng tôi. Thời điểm đó, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (ngày 27-1-1973) đã được một thời gian, nhưng địch vẫn tập trung càn quét, giành đất giành dân, cắm cờ ba sọc ở các vùng ven đô và nông thôn, còn phía sau hậu cứ khá yên bình.

Cũng từ cơ quan K8-sông HWay, tôi chia tay các anh chị, bạn bè lên đường về Văn phòng Tỉnh ủy-căn cứ Krong, chờ ra Khu 5 học lớp cơ yếu theo quyết định của Ban Tổ chức Tỉnh ủy. Xa các anh chị, bạn bè đã từng chung sống, công tác, chia ngọt sẻ bùi bao năm trong chiến tranh khốc liệt ở vùng được coi là gian khổ, hy sinh nhất nhì địa bàn Gia Lai, tôi bùi ngùi xúc động, lưu luyến chẳng muốn rời. Nhưng khi nhớ lại lời của chú Hồ Ngọc Năm-Bí thư Huyện ủy-bảo: “Cháu là đảng viên mới, phải chấp hành sự phân công của Đảng một cách nghiêm túc”, tôi đành phải gác lại nỗi niềm riêng, xách ba lô theo các đồng chí giao liên lên đường trong một ngày cận Tết Giáp Dần 1973, mà giấu đi những giọt nước mắt âm thầm lăn dài hai bên bờ má.

Có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong phòng, chống mua bán người - Bài 1: Những cuộc đời bị đánh cắp

Quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong phòng, chống mua bán người - Bài 1: Những cuộc đời bị đánh cắp

Nạn mua bán người gây ra những hậu quả không thể đo đếm được khi tước đoạt tương lai, cuộc sống và để lại nỗi đau tận cùng cho nạn nhân, gia đình họ cùng nhiều người khác. Thấu hiểu nỗi đau đó, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và cả hệ thống chính trị quyết liệt đấu tranh với loại tội phạm này. Luật Phòng, chống mua bán người sau hơn 10 năm được Quốc hội thông qua đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, có ý nghĩa chính trị cả về đối nội, đối ngoại và thể hiện quyết tâm của Việt Nam trước vấn nạn nhức nhối cần loại bỏ.
Sóc, Bẹc dưới bóng mây Tà Xiên

Sóc, Bẹc dưới bóng mây Tà Xiên

Con chó Sóc có màu lông xám pha trắng giống màu gấu trúc, còn con chó Bẹc có lông vàng pha đen. Cả 2 con không phải vật lộn để sinh tồn như con chó Ca Dăng trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thế giới của nhà văn James Oliver Curwood. Cả 2 con phải quen với mùi hương mới, khi sự đổi thay lan khắp vùng cao xã Ga Ri (Tây Giang).
Phía sau những gánh hàng rong - kỳ 2: Những đêm dài…

Phía sau những gánh hàng rong - kỳ 2: Những đêm dài…

Họ cũng muốn được quây quần bên mâm cơm tối cùng gia đình, được ngủ say trên chiếc giường có chăn ấm, nệm êm. Nhưng cuộc mưu sinh không cho họ lựa chọn nào khác. “Nghề của mình như vậy, đã đâm lao thì phải theo lao. Đời mình không sướng được thì cố để con cháu được sướng thay mình”, chị Lợi, một người bán hàng rong ở bờ hồ Hoàn Kiếm tâm sự...
Mạch ngầm sông Ba - Kỳ cuối: Chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp ở An Khê

Mạch ngầm sông Ba - Kỳ cuối: Chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp ở An Khê

(GLO)- Tháng 10-1945, dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Trung Kỳ, Chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở tỉnh Gia Lai được thành lập, gồm 9 đảng viên, do đồng chí Nguyễn Đường làm Bí thư. Sự kiện này đã đánh dấu mốc quan trọng trong bước phát triển của phong trào cách mạng ở địa phương. Chi bộ cũng là Ban vận động thành lập Đảng bộ tỉnh Gia Lai sau này.
Lần theo dấu chân xưa

Lần theo dấu chân xưa

Sau khi dự một cuộc gặp mặt các chiến sĩ giao liên thời kháng chiến ở TP.Tam Kỳ, lại là ngày cuối tuần, tôi xuống cửa An Hòa, ngồi thuyền theo dòng Trường Giang…
Phía sau những gánh hàng rong: Nỗi niềm ai tỏ…

Phía sau những gánh hàng rong: Nỗi niềm ai tỏ…

Không người thân, không họ hàng bên cạnh, không bạn bè, tài sản quý giá nhất của họ chỉ là chiếc xe đạp, đôi quang gánh hoặc một chiếc xe hàng nhỏ. Họ là những người độc hành ở đất Hà thành. Hàng thập kỷ qua, những bước chân họ in dấu khắp phố phường, những tiếng rao vẫn cất lên ngày đêm, dù đã mai một nhiều…
Mùa thiên di của người

Mùa thiên di của người

Khi những cơn mưa dầm của tháng 11 dần tắt, gió chướng bắt đầu thổi về, mang cái hanh khô, se sắt phủ tràn lên những bạt ngàn cà phê chín đỏ, đó là khi đoàn người thiên di từ khắp các ngả quê đổ về Tây Nguyên. Dù đã nhiều lần đến Tây Nguyên vào mùa gió chướng, gặp những đoàn người thiên di mùa cà phê chín, nhưng tôi vẫn có cảm xúc khó nói hết thành lời…
Lấp lánh những 'vầng trăng khuyết', Kỳ 2: Chim cánh cụt vẫn có thể bay

Lấp lánh những 'vầng trăng khuyết', Kỳ 2: Chim cánh cụt vẫn có thể bay

Từ một người khuyết tật, chị Nguyễn Thị Huyền đến từ Đắk Nông không ngừng nỗ lực vươn lên làm chủ cuộc sống, tạo việc làm cho nhiều người cùng cảnh ngộ. Chị chia sẻ: “Đẹp không chỉ ở nhan sắc, đi không chỉ nhờ đôi chân, chim cánh cụt vẫn có thể bay nếu chúng ta đủ niềm tin và nghị lực”.
Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 2: “Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ”

Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 2: “Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ”

Ư(GLO)- Đỗ Trạc thường đọc cho bạn bè ở vùng An Sơn nghe trong giai đoạn anh từ Huế trở về quê để chờ thời, chuẩn bị cho một hành trình mới trong đời, đó là những câu đầy trăn trở trước thời cuộc: “Nào ai tỉnh, nào ai say/Lòng ta ta biết, chí ta ta hay/Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ/Hà tất cùng sầu đối cỏ cây…” (Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác-người theo phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh). Một số thanh niên và trí thức nông thôn ở An Khê bấy giờ đang hoang mang, đứng ở ngã ba đường. Không khí chiến tranh khá ngột ngạt bao trùm khắp nơi, các tổ chức yêu nước bị giặc khủng bố, đàn áp.
Rước rể

Rước rể

Khi cô gái Êđê muốn lấy người con trai ưng ý làm chồng, bên nhà gái phải nhờ ông mai là em trai mẹ hoặc người lớn tuổi trong dòng họ am hiểu luật tục chuẩn bị sính lễ mang đến nhà trai làm lễ hỏi chồng. Sau thời gian 'gửi dâu' từ 2 đến 3 năm, nhà trai chấp thuận sẽ đồng ý cho nhà gái tiến hành rước rể.
Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 1: Từ lúc trong tim“bừng nắng hạ”

Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 1: Từ lúc trong tim“bừng nắng hạ”

(GLO)- Trước khi qua đời, ông Đỗ Hằng, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên Bí thư Huyện ủy An Khê (tỉnh Gia Lai) đã gửi cho chúng tôi tập tài liệu về Anh hùng Đỗ Trạc-người có công khai sáng, mở đường đầu tiên cho phong trào cách mạng An Khê với di nguyện là: Hãy viết một tập ký về người anh hùng trong kháng chiến chống Pháp trên đất An Khê. Sau nhiều tháng nghiên cứu, chấp bút, đến nay, chúng tôi cơ bản đã hoàn thành tập truyện ký về cuộc đời người con của quê hương An Khê, xin trích đăng một phần giới thiệu cùng bạn đọc.
Theo bước chân những người giữ rừng

Theo bước chân những người giữ rừng

Có những nỗi niềm rất riêng của mỗi người khi họ làm nhiệm vụ bảo vệ rừng, khi cơn gió giao mùa đến rất gần và những hạt mưa nặng trĩu rơi xuống, họ vẫn ngày đêm túc trực để giữ rừng, đôi mắt cứ ngóng về phía xa xa, nơi đó có gia đình và một niềm tin không mỏi.
Cồn bãi giữa dòng Gianh: Những 'cái nhất' ở Cồn Sẻ

Cồn bãi giữa dòng Gianh: Những 'cái nhất' ở Cồn Sẻ

Những doi đất ở vùng hạ lưu sông Gianh (Quảng Bình), tức Linh Giang, chỉ giới tự nhiên phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài trong quá khứ, giờ đang ôm ấp hàng vạn mảnh đời. Trên sông Gianh có nhiều cồn, dài nhất khoảng 3,8 km, rộng nhất khoảng 0,8 km. Giữa bốn bề sóng nước, cư dân vẫn kiên cường bám trụ hết đời này sang đời khác và không thôi ấp ủ những giấc mơ.