Katê - Lễ hội văn hóa dân gian đậm đà bản sắc của đồng bào Chăm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Lễ hội Katê là bức tranh phác họa đời sống sinh hoạt cộng đồng, nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của đồng bào dân tộc Chăm.
Các thiếu nữ Chăm múa mừng Lễ hội Katê 2019 tại tháp Pô Klong Garai, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. (Ảnh: Công Thử/TTXVN)
Các thiếu nữ Chăm múa mừng Lễ hội Katê 2019 tại tháp Pô Klong Garai, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. (Ảnh: Công Thử/TTXVN)
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Thuận đang phối hợp triển khai kế hoạch lập và trình UNESCO công nhận Lễ hội Katê là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Trong di sản văn hóa Việt Nam, dấu ấn văn hóa Chăm thể hiện rõ nét trong kiến trúc, điêu khắc, phong tục tập quán, lễ hội, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, nghề gốm, dệt vải…
Trong đó, lễ hội Katê là lễ hội dân gian đậm đà bản sắc, “bức tranh” phác họa đời sống sinh hoạt cộng đồng, nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của đồng bào dân tộc Chăm.
Lễ hội Katê của đồng bào Chăm, đặc biệt là người Chăm theo đạo Bàlamôn, được phục dựng từ năm 2005 tại Di tích cấp quốc gia Pô Sha Inư với đầy đủ các nghi thức và các giá trị văn hóa dân gian truyền thống đặc sắc vốn có trong lịch sử, mang đậm yếu tố tâm linh, tín ngưỡng của đồng bào Chăm.
Lễ hội mang ý nghĩa tưởng nhớ tổ tiên, ông bà, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; cầu mong cho sự hòa hợp lứa đôi, sự sinh sôi nảy nở của con người và vạn vật.
Năm 2017, đồng bào Chăm Ninh Thuận đón nhận bằng chứng nhận Lễ hội Katê được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
 Đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn ở Ninh Thuận lên tháp Pô Klong Garai, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cùng kính, vui lễ hội Katê 2019. (Ảnh: Công Thử/TTXVN)
Đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn ở Ninh Thuận lên tháp Pô Klong Garai, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cùng kính, vui lễ hội Katê 2019. (Ảnh: Công Thử/TTXVN)
Ngày nay, Lễ hội Katê không chỉ là niềm vui riêng của bà con dân tộc Chăm mà còn là một trong những ngày hội lớn của các dân tộc anh em Kinh, Chăm, Ra Glai ở Ninh Thuận.
Từ năm 2000, lễ hội Katê đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp vào một trong 15 lễ hội lớn nhất ở Việt Nam.
Cứ vào đầu tháng 7 Chăm lịch hàng năm (khoảng cuối tháng 9 hoặc trong tháng 10 dương lịch) đồng bào Chăm Bàlamôn và Chăm Bàni tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận lại tưng bừng tổ chức lễ hội Katê.
Katê là lễ hội dân gian đậm đà bản sắc nhất trong kho tàng văn hóa dân tộc Chăm, là bức tranh phác họa đời sống sinh hoạt cộng đồng; nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc Chăm. Đây là dịp để người Chăm từ mọi miền đất nước trở về đoàn tụ cùng gia đình, bạn bè, dòng họ.
Lễ hội Katê có các hoạt động ở đền, tháp; thôn, xóm và tại các gia đình.
Tại đền, tháp có các hoạt động: Lễ đón rước y trang, nghi lễ diễn ra ở các đền, tháp nơi tổ chức lễ hội (tháp Chăm Pô Sah Inư, tháp Pô Klông Garai, tháp Pô Rômê, Pô Nagar). Đây là lễ đón rước y trang của Nữ thần Pô Ina Nagar. Đây là Thần mẹ xứ sở, thủy tổ của người Chăm gắn liền với nhiều huyền thoại, truyền thuyết nên thần mẹ xứ sở có ảnh hưởng rất nhiều đến tín ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc Chăm cũng như có ảnh hưởng đến các dân tộc ở Việt Nam.
Lễ mở cửa đền, tháp: Chủ trì phần nghi lễ này là vị Cả sư, các tu sĩ làm lễ cầu xin các vị thần linh cho phép được mở cửa đền, tháp. Lễ này được diễn ra trước cửa đền, tháp trong không khí rất tôn nghiêm.
Lễ tắm tượng thần: Lễ này được diễn ra bên trong đền, tháp, phần nghi lễ này gồm có Cả sư, ông Kadhar - thầy kéo đàn Kanhi và hát những bài ca tụng công ơn của các vị vua, Muk Pajâu (bà Bóng), ông Camưnay (Ông Từ) và một số tín đồ nhiệt thành khác.Vị cả sư cầm lọ nước thánh có pha trầm hương tưới lên tượng thần (tượng thần bằng đá dưới hình thể linga hình mặt người).
Lễ mặc y phục cho tượng thần: Sau khi lễ tắm tượng thần kết thúc thì đến phần nghi lễ mặc áo cho thần. Lễ được tiến hành nhịp nhàng theo các câu hát của thầy kéo đàn Kanhi và tiếng hát của ông Kadhar. Khi ông Kadhar đang hát thì ông Camunay và Muk Pajâu mặc váy, áo cho tượng thần. Cứ như thế cho đến khi mặc y phục cho vua xong.
Tiếp đến là múa cầu an và dâng lễ, cuối cùng là lễ múa mừng lễ hội Katê với các điệu múa của thiếu nữ Chăm hòa nhịp trong tiếng đàn Kanhi, tiếng trống Baranưng, tiếng trống Ghi-năng và tiếng kèn Saranai.
Tại làng và gia đình, sau khi lễ hội tại các đền, tháp kết thúc thì không khí của hội lại sôi nổi diễn ra ở các làng, thôn xóm của người Chăm. Tại các thôn xóm Chăm nhộn nhịp với những trò chơi dân gian đặc sắc như: hội thi dệt vải, làm gốm, đội nước, múa quạt, đánh cồng chiêng, ca hát; trưng bày gốm, thổ cẩm; cúng Katê thần làng; các trò chơi dân gian, giao lưu thể thao…
Khi lễ hội ở làng kết thúc thì lễ Katê ở các dòng tộc, gia đình trong đồng bào Chăm mới được tổ chức. Lễ hội Katê tại các gia đình và dòng họ được tổ chức nhằm quy tụ tất cả các thành viên trong gia đình để ông bà, cha mẹ giáo dục các thế hệ con cháu biết ơn, kính trọng tổ tiên và cầu mong tổ tiên phù hộ cho một năm làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn.
Lễ hội còn là dịp để những người tham dự được thưởng thức một nền nghệ thuật ca-múa-nhạc dân gian với phong cách độc đáo.
Lễ hội Katê của đồng bào Chăm diễn ra hàng năm đã góp phần bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa. Đây cũng là cơ hội để quảng bá hình ảnh của địa phương đến du khách trong và ngoài nước.
Theo Vietnam+

Có thể bạn quan tâm

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

Thì thầm từ gốm Yang Tao

Thì thầm từ gốm Yang Tao

Nhờ may mắn làm cái nghề viết lách nên tôi từng có dịp đến nhiều trung tâm gốm của cả nước. Nghề gốm mỗi nơi mỗi kiểu, sản phẩm đơn giản có, tinh xảo có; quy trình tạo tác thủ công lẫn công nghiệp hóa vài ba công đoạn cũng có.

Cồng chiêng “nhí”: Nối dài mạch nguồn văn hóa

Cồng chiêng “nhí”: Nối dài mạch nguồn văn hóa

(GLO)- Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của những đội cồng chiêng “nhí” ở huyện Kbang (tỉnh Gia Lai) không chỉ là kế thừa mà còn trở thành nhịp cầu nối dài mạch nguồn văn hóa truyền thống, để hồn cốt dân tộc tiếp tục sống mãi qua từng thế hệ.

null