Hổ đẹp trong mỹ thuật cổ Việt Nam

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Tượng hổ trong lăng, hổ trên vật liệu kiến trúc, hổ trên gốm, trên vải... Hình tượng hổ trong mỹ thuật cổ Việt Nam vừa đẹp vừa đa dạng.
 

Chuyện của hổ

Nhà sưu tập Nguyễn Văn Dòng vẫn nhớ thời điểm 2003 khi ông nhận được cuộc điện thoại của một thợ đào đất ở Hòa Bình. Người này liên lạc với ông và nói vừa tìm được một thạp thế kỷ 13 - 14. “Họ gọi cho tôi nói rằng em có tìm được cái thạp hay lắm. Đề tài của nó là điệu hổ ly sơn. Họ nói đề tài như thế cho hấp dẫn, để tôi tìm đến mua. Có một con ngựa chạy đằng trước, lưng có cái cờ đuôi nheo, đằng sau là con hổ đang chạy ra ngoạm lấy cái đuôi con ngựa. Người ta tạo câu chuyện đó là trận đồ điệu hổ ly sơn, nghĩa là dùng con ngựa làm mồi nhử từ hang ra”, ông Dòng nhớ lại. Ông cũng chia sẻ, khi tìm tới, ông ưng ngay con hổ vì được vẽ rất thần thái, to khỏe. Tới giờ, bạn bè trong giới cổ vật vẫn gọi chiếc thạp đó là thạp điệu hổ ly sơn nhà ông Dòng.

Chiếc thạp gốm của ông Dòng là một trong hơn 30 hiện vật được bày tại trưng bày Hổ trong mỹ thuật cổ VN. Trưng bày diễn ra tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia (Hà Nội) từ 18.1 - 31.8. Triển lãm có hiện vật của bảo tàng, kết hợp với hiện vật từ các sưu tập tư nhân của các nhà sưu tập Nguyễn Văn Dòng, Trần Đình Thăng, Lê Tuấn Anh, Cao Xuân Bình.


 

 Mảnh gạch trang trí hổ sóng nước bằng đất nung, thế kỷ 11 - 14 (Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Mảnh gạch trang trí hổ sóng nước bằng đất nung, thế kỷ 11 - 14 (Bảo tàng Lịch sử quốc gia)


Theo Bảo tàng Lịch sử quốc gia, hình tượng hổ có lịch sử lâu đời trong văn hóa VN. Các tài liệu liên quan chứng minh, hổ là đối tượng sùng bái và là vật tổ của nhiều bộ tộc từ thời tiền sử. Cách đây hơn 2.000 năm, hình tượng hổ bước vào mỹ thuật trên các đồ đồng Đông Sơn, với quan niệm kính sợ và tôn thờ sức mạnh, oai linh của loài vật này. Sau này, hổ vừa có ý nghĩa tâm linh, vừa liên quan đến vương quyền, lại cũng là câu chuyện dân gian. Hình tượng hổ đã đồng hành và đóng góp những nét đặc sắc với phức cảm thẩm mỹ vào lịch sử mỹ thuật VN.

Chính vì thế, bảo tàng chọn cách kết hợp các chất liệu, các bộ sưu tập để có thể kể trọn vẹn câu chuyện hổ qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Công chúng nhờ đó được chiêm ngưỡng hổ trên chất liệu kim loại như đồng; trên chất liệu gốm hoa lam, đồng pháp lam, đất nung, tranh khắc, tranh thêu, ngọc. Có những chất liệu hiếm gặp hình tượng hổ như gốm. Ông Dòng cho biết: “Tôi cũng mang đến hai cái đĩa vẽ hổ gốm Chu Đậu, đều tìm thấy ở con tàu đắm Cù Lao Chàm, mua hồi năm 2008 gì đó. Cái này thì thực ra câu chuyện không có gì, khi người ta chào những đồ gốm thì thấy đúng là đề tài hổ trên đồ gốm ít, chứ không như những đề tài rồng, phượng hay voi; chim thì cũng nhiều, hổ tính đến nay ít hơn”.

 

 Bức chạm hổ trên ô thoáng cửa bằng gỗ, thế kỷ 17 (hiện vật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Bức chạm hổ trên ô thoáng cửa bằng gỗ, thế kỷ 17 (hiện vật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia)


Mỗi thời mỗi khác

Tại triển lãm, công chúng được xem chiếc qua đồng được ông L.Pajot sưu tầm tháng 7.1921 và sau đó đưa về Bảo tàng Louis Finot. Chiếc qua này có hình hổ với các chấm trên thân ở cả 2 mặt. Ban tổ chức cho biết đợt thám sát khảo cổ học năm 1972 tại Bắc Ninh của Bảo tàng Lịch sử VN (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia), các nhà khảo cổ đã phát hiện ra nhiều tấm đồng trổ thủng mang hình hổ và hươu. Tạo hình hổ thời Đông Sơn vừa mang tính tả thực vừa mang tính ước lệ, thể hiện sinh động sức mạnh bí ẩn của loài vật này.

Từ thế kỷ thứ 10, VN bước vào thời kỳ xây dựng các triều đại phong kiến tự chủ. Triều Lý, sử sách ghi chép nhiều chuyện có liên quan đến hổ như nuôi hổ, đấu hổ để giải trí và trừng trị phạm nhân, Thái sư Lê Văn Thịnh hóa hổ... Ban tổ chức cho rằng dường như thời kỳ này, hổ đại diện cho cái ác, sự trừng phạt, tạo cảm giác ghê sợ, do vậy, cho đến nay chưa phát hiện được hình tượng hổ nào.

Thời Trần (1225 - 1400), hổ xuất hiện với tạo hình khỏe khoắn, sinh động, thể hiện sự dũng mãnh, oai phong, đồng thời được coi như linh thú trấn yểm, bảo vệ các lăng mộ. Tượng hổ ở lăng Trần Thủ Độ (Hưng Hà, Thái Bình) và lăng vua Trần Hiến Tông (Đông Triều, Quảng Ninh) là các tác phẩm điêu khắc hiếm hoi còn lại của thời Trần, mở đầu cho truyền thống đặt tượng ở hai bên trục thần đạo tại các lăng mộ.

 

 Bổ tử thêu hình hổ bằng vải, thế kỷ 20 (Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
Bổ tử thêu hình hổ bằng vải, thế kỷ 20 (Bảo tàng Lịch sử quốc gia)


Tới thời Lê Sơ (thế kỷ 15 - 16), các lăng này thường có 10 pho tượng với kích thước nhỏ, khoảng 110 cm đối với tượng người và 60 cm đối với tượng thú. Nhóm tượng này chia làm 5 đôi, gồm: quan hầu, lân, tê giác, ngựa, hổ. Ở một số lăng muộn hơn, tượng voi thay cho tượng hổ, còn các tượng khác vẫn giữ nguyên. Các tượng nói chung và tượng hổ được thể hiện đơn giản ở cách tạo dáng, khối, đường nét nhưng vẫn giàu tính biểu cảm.

Thời Lê - Trịnh (thế kỷ 17 - 18) với sự nới lỏng trong việc ban phong chức tước và hậu đãi với tầng lớp quan lại là thời kỳ nở rộ của các loại hình kiến trúc lăng mộ. Tượng hổ tại các di tích này thường được làm với kích thước lớn, khối hình trau chuốt mang tính tả thực cao. Thời này, hổ được coi như hộ môn thú, canh gác cửa các khu lăng mộ.

 

Đĩa trang trí hổ bằng gốm hoa lam nhiều màu Chu Đậu, thế kỷ 15 (Nguyễn Văn Dòng sưu tập)
Đĩa trang trí hổ bằng gốm hoa lam nhiều màu Chu Đậu, thế kỷ 15 (Nguyễn Văn Dòng sưu tập)

Tới thời Nguyễn (thế kỷ 19 - 20), hình tượng hổ biểu trưng cho sức mạnh được sử dụng khá phố biến. Hổ dùng để trang trí các tấm bổ tử trên phẩm phục võ quan, trên các bức trướng, tranh thêu, đồ gỗ chạm khảm, đồ ngọc, đồ pháp lam, bình phong trong các di tích đền, miếu... Quần thể di tích cố đô Huế còn có công trình Hổ quyền - đấu trường của voi và hổ, được xây dựng năm 1830 dưới triều vua Minh Mạng. Hình hổ cũng được đúc trên Cao đỉnh - chiếc đỉnh lớn nhất trong cửu đỉnh, báu vật tượng trưng cho đế nghiệp muôn năm vững bền của triều Nguyễn. Đây cũng là thời kỳ hình tượng hổ đa sắc, đa dạng từ cung đình đến dân gian.

Theo TRINH NGUYỄN (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Thợ rèn trong xã hội Tây Nguyên

Thợ rèn trong xã hội Tây Nguyên

(GLO)- Việc tìm thấy kim loại sắt đã giúp loài người tiến một bước dài trong lịch sử. Cũng vì thế mà người chế tác sắt-thợ rèn được nhiều tộc người trên thế giới tôn vinh. Riêng với người Tây Nguyên, thợ rèn được coi là người sáng thế, người tạo ra con người.
Chuyện về hậu hiền họ Nguyễn ở Phú Cần

Chuyện về hậu hiền họ Nguyễn ở Phú Cần

(GLO)- Hàng năm, cứ đến ngày 28-5 âm lịch, dân làng Phú Cần xưa (nay thuộc thôn Thắng Lợi, xã Phú Cần, huyện Krông Pa) lại tập trung về ngôi đền thờ tiền hiền của làng để tưởng nhớ và tri ân các bậc tiền hiền, hậu hiền đã có công xây dựng, phát triển làng xã.
Liên hoan hát ru, hát dân ca và trình diễn nhạc cụ các dân tộc: Sức sống của nghệ thuật dân gian

Liên hoan hát ru, hát dân ca và trình diễn nhạc cụ các dân tộc: Sức sống của nghệ thuật dân gian

(GLO)- Khởi đi từ đời sống, nghệ thuật dân gian chạm vào đời sống và có sức sống bền lâu. Điều đó thêm một lần thể hiện tại Liên hoan hát ru, hát dân ca và trình diễn nhạc cụ các dân tộc tỉnh Gia Lai năm 2024 qua phần trình diễn của các nghệ sĩ “chân đất”.
Nghệ nhân ưu tú trao truyền di sản văn hóa

Nghệ nhân ưu tú trao truyền di sản văn hóa

(GLO)- Các nghệ nhân ưu tú trong cộng đồng Bahnar, Jrai đã cùng gặp nhau tại phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) để truyền dạy văn hóa phi vật thể cho thế hệ kế cận. Thay đổi không gian thực hành quen thuộc nhưng các nghệ nhân và truyền nhân vẫn đầy đam mê, luôn giữ lửa tình yêu với văn hóa dân tộc.
Lễ cúng bến nước Hồ Lắk

Lễ cúng bến nước Hồ Lắk

Lễ cúng bến nước hay còn gọi là lễ cúng bến hồ là một trong những lễ hội truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên nói chung và dân tộc M’nông huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk nói riêng.
Hoa tai bạc của người Bahnar

Hoa tai bạc của người Bahnar

(GLO)- Hoa tai bạc hay ngà voi là trang sức đặc trưng của phụ nữ Bahnar ở huyện Kông Chro. Nếu hoa tai ngà voi gần như biến mất cùng với tục căng tai thì hoa tai bạc vẫn tồn tại trong đời sống của người Bahnar như một tiêu chí của cái đẹp, của truyền thống văn hóa.
Lễ cúng sức khỏe của người Ê Đê

Lễ cúng sức khỏe của người Ê Đê

Trước ngày tổ chức lễ cúng sức khỏe, người dân trong buôn cùng nhau góp một ít gạo cho chủ nhà nấu rượu phục vụ lễ cúng. Qua đó, thể hiện sự gắn kết, sẻ chia trong cuộc sống, tình đoàn kết cộng đồng dân tộc.