Giờ cứu nước - Kỳ 3: Đội quân thiếu niên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Sau lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, 175 thiếu niên (từ 9-15 tuổi) đã trốn ở lại Hà Nội để trực tiếp tham gia đánh giặc, làm liên lạc, tiếp lương thực...

 Vệ út Phùng Đệ
Vệ út Phùng Đệ


Những người đó giờ chỉ vài người còn sống và tất cả đều đã ngoài 80 tuổi.

Khi biết chúng tôi muốn gặp, ông Đặng Văn Tích (85 tuổi) một lần nữa “trốn” khỏi Bệnh viện 198 (ông đang điều trị bệnh tiểu đường), đón xe ôm về nhà ở Lai Xá (xã Kim Chung, huyện Hoài Đức).

Trốn ở lại để chiến đấu

Gặp chúng tôi, ông vồn vã nói: phải về nhà thì mới nói chuyện lâu được, mới có tài liệu để cung cấp cho các anh.

“Hà Nội thời ấy gọi là quân đội thì chỉ có một đại đội vệ quốc đoàn khoảng trăm quân chuyên làm nhiệm vụ ở Bắc bộ phủ để bảo vệ trụ sở trung ương và lãnh đạo cấp cao. Ở các khu phố chỉ có dân quân. Và có một “đội quân đặc biệt” là những thiếu niên chúng tôi. Vì bé nhất nên mọi người đã gọi là vệ út - những đứa em út của các anh vệ quốc đoàn” - ông Tích giải thích.

Còn với cậu bé Phùng Đệ, sinh ra trong một gia đình nghèo khó, mồ côi bố mẹ, nên từ nhỏ đã phải đi học nghề khâu giày kiếm sống. Nhưng vì làm nghề khâu giày, được đi nhiều nơi nên Phùng Đệ đã sớm phải chứng kiến những vụ tàn sát đồng bào ta của quân Pháp.

“Sáng 17-12-1946, quân Pháp tàn sát hàng chục người dân ở phố Hàng Bún thì buổi chiều tôi đến đó, cảnh tượng đập vào mắt tôi và ám ảnh đến tận bây giờ là hai mẹ con ôm nhau chết trong hố trú bom vì bị lưỡi lê đâm xuyên qua người.

Vì thế không khí chuẩn bị chiến đấu ở Hà Nội lúc đó như một cái lò xo bị nén chặt xuống, chỉ đợi lệnh của Cụ Hồ, của chính phủ là bùng lên.

Lũ trẻ chúng tôi phần nhiều là con nhà nghèo, phải làm đủ nghề để kiếm sống, đã vốn ghét Tây lại chứng kiến nhiều việc đau thương như vậy nên khi được đi theo các anh vệ quốc đoàn thì thích lắm, vui lắm.

Vì thế đêm 19-12, khi mọi người bồng bế nhau tản cư thì tôi chạy ngược từ bãi Phúc Tân, tìm vào phố Hàng Bè để đi theo các anh vệ quốc đoàn” - ông Phùng Đệ nhớ lại những ngày tháng ấy.

Cũng như ông Tích, ông Đệ, bà Vũ Thị Nhâm khi đó mới 14 tuổi, được bố đưa về quê tản cư, đã bỏ trốn giữa đường, quay trở lại bãi Phúc Tân với các chị và xin vào trung đội tự vệ trên phố Hàng Bè.

“Ngày 14-1-1947, Bác Hồ lệnh cho trung đoàn Thủ đô chỉ để lại 500 người chiến đấu, còn lại rút ra ngoài. Các vệ út cũng buộc phải rút ra, vì khi đó vũ khí đạn dược của ta đã cạn, đặc biệt lương thực ngày càng khó khăn.

Ở phía ngược lại thì quân Pháp có đầy đủ mọi thứ. Vì thế cần phải rút bớt người để giảm thiệt hại. Vậy nhưng đến ngày 17-2 khi quân ta rút hết khỏi Hà Nội, lúc kiểm đếm lại thì có đến trên 1.200 người, trong đó có 175 vệ út đã trốn lệnh cấp trên ở lại chiến đấu.

Người thì ở trong tủ quần áo chui ra, người trên trần nhà trèo xuống. Đây là những người vi phạm kỷ luật nhưng bằng tấm lòng yêu nước, quyết sống chết cùng thủ đô đến cùng”-Đại tá Nguyễn Trọng Hàm, khi đó là trung đội trưởng chiến đấu trên phố Hàng Thiếc, nhớ lại.

 

Vệ út Vũ Thị Nhâm
Vệ út Vũ Thị Nhâm


“Điện thoại sống”

Đại tá Nguyễn Trọng Hàm (95 tuổi, nguyên phó tham mưu trưởng Quân khu thủ đô - nay là Bộ tư lệnh thủ đô), trưởng Ban liên lạc truyền thống quyết tử trung đoàn Thủ đô, khẳng định trong 60 ngày đêm quyết tử của 70 năm trước, vai trò của các vệ út rất quan trọng.

Các vệ út khi đó là những chú bé liên lạc, là những “điện thoại sống” bất chấp hiểm nguy. Thậm chí theo ông Hàm, nếu không có vệ út thì ngày 17-2-1947 sẽ không ai biết đường rút quân thế nào.

Chính các vệ út đã nghĩ ra và dẫn đường đưa trên 1.200 quân rút khỏi Hà Nội mà giặc Pháp không hề hay biết.

Ông Đặng Văn Tích kể biết cuộc chiến sẽ diễn ra, nên trước ngày 19-12 các lực lượng ta đã ngấm ngầm đục tường làm đường liên thông từ nhà này sang nhà khác. Đây như một giao thông hào, và không ai khác chính những thiếu niên chúng tôi thông thuộc các lối đi lại này.

Khi kháng chiến nổ ra, đồ đạc, cây cối, cột điện, toa tàu được ném hết ra đường để chặn quân Pháp. Vệ quốc đoàn và dân quân tự vệ không thể tự do đi lại trên phố, và các vệ út là những liên lạc viên chạy như con thoi giữa lòng Hà Nội, trước mũi súng quân thù để báo tin.

“Vai trò của vệ út chúng tôi là phải nhớ, thuộc đường đi lối lại trong thành phố, nhất là lối đi trong “trận đồ bát quái” qua những lỗ đục tường giữa các nhà. Vệ út cũng là người truyền mệnh lệnh giữa chỉ huy đến các đơn vị chiến đấu và dẫn quân tiếp viện đến nếu cần.

Ban đêm có rất nhiều Việt gian, quân của địch sang phía mình để do thám tình hình. Thời đó đâu có điện thoại, vì vậy tối nào chúng tôi cũng được lệnh mang khẩu lệnh từ tiểu đoàn xuống các đại đội, trung đội tới tiểu đội.

Mỗi ngày đều có một khẩu lệnh khác nhau như “hòa bình”, “chiến đấu”, “độc lập”... Nếu gặp ai không trả lời đúng khẩu lệnh thì có thể bị bắt giữ hoặc bị bắn. Vì thế, mỗi vệ út chúng tôi là một chiếc “điện thoại sống” ở Hà Nội khi đó”-ông Phùng Đệ kể.

 

Vệ út Đặng Văn Tích
Vệ út Đặng Văn Tích


Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh

70 năm đã trôi qua nhưng mỗi vệ út đều nhớ như in những tấm gương hi sinh anh dũng của đồng đội.

Vệ út Vũ Thị Nhâm kể về sự hi sinh anh dũng của vệ út Trần Ngọc Lai. Theo lời kể của bà Nhâm, cay cú sau thất bại trong trận đánh nhà Sô Va, ngày 12-2-1947 quân Pháp đã tập trung lực lượng lớn đánh vào trường Ke ở ngay đầu Ô Quan Chưởng.

 

“Có một hình ảnh thời đó mà giờ tôi vẫn nhớ mãi. Sau một cuộc chiến, tiếng súng đạn đì đùng im hẳn thì một vệ út khoảng 10 tuổi cố mặc thêm thật nhiều áo, rồi định chạy về phía địch để trộm súng của đám lính bị thương.

Tôi hỏi mặc nhiều áo làm gì, cậu vệ út tên Minh đó ngây ngô đáp: em mặc nhiều áo để đạn giặc không bắn vào người em được.

Sau hôm đó vài hôm, tôi hỏi thì biết Minh đã hi sinh trong một trận chiến khác. Nói vậy để thấy tinh thần chiến đấu của các vệ út thật ngoan cường”-Đại tá Nguyễn Trọng Hàm tâm sự.

Trường Ke cùng với nhà Sô Va là một trong hai chốt chặn quan trọng để đảm bảo đường liên lạc duy nhất giữa nội thành Hà Nội với bên ngoài. Nếu để Pháp chiếm được trường Ke thì coi như ta mất Hà Nội.

Bà Vũ Thị Nhâm kể lại buổi sáng ngày hôm đó, bà vẫn mang cơm đến tiếp tế cho tiểu đội khoảng 10 người đóng tại trường Ke, nhưng trên đường đi về bà thấy quân Pháp tập trung nhiều xe tăng, binh lính ở chân cầu Long Biên.

“Linh cảm sắp có chuyện xảy ra, tôi chạy về trung đội xin lựu đạn. Tôi vừa kịp mang về, tiếp tế cho mỗi anh mấy quả lựu đạn thì địch bắt đầu tấn công. Vì quân địch quá đông nên cả tiểu đội rút lên tầng hai cố thủ.

Trong khi lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệnh, trường Ke có thể sẽ bị chiếm thì vệ út Trần Ngọc Lai (12 tuổi) đã nhanh trí tụt theo đường ống máng nước xuống để chạy về báo cáo với Ban chỉ huy tiểu đoàn để xin tiếp viện.

Báo cáo xong Lai lại chạy về trường Ke nhưng lần này bị quân Pháp phát hiện và hò nhau vây bắt. Lai ném lựu đạn giết được ba tên địch, còn cậu trúng đạn.

Thấy Lai ngã xuống, những tiếng hô xung phong trả thù cho vệ út Lai vang lên, quân ta từ trên đánh xuống cùng quân tiếp viện từ ngoài đánh vào buộc quân Pháp phải rút lui”.

Theo Tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

(GLO)- Gần 40 năm gắn bó với rừng, ông Nguyễn Văn Chín-Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra (xã Hra, tỉnh Gia Lai) được biết đến như vị “thủ lĩnh giữ rừng” đặc biệt: từ việc biến lâm tặc thành người giữ rừng đến phủ xanh vùng đất cằn cỗi nơi “cổng trời” Mang Yang.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

null