Gian bếp của người Jrai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Theo truyền thống, gian bếp của người Jrai được thiết kế luôn trong ngôi nhà dài và thường có 2 bếp đặt ở 2 vị trí khác nhau. Chiếc bếp đầu tiên nhìn từ ngoài cửa vào được sử dụng để nấu ăn, phục vụ sinh hoạt hàng ngày của gia đình. Chiếc bếp thứ hai đặt ở phía trong bên phải nhà, là nơi chủ nhà dùng để tiếp khách hoặc nơi diễn ra các lễ cúng, sinh hoạt văn hóa. 
Tuy nhiên, hiện nay, để thuận tiện cho sinh hoạt của những gia đình ít người, nhà dài cũng không được làm rộng dài như xưa nữa và nhà bếp của người Jrai được làm riêng, nằm ngang so với nhà dài. Nhà bếp cũng được làm theo kiểu nhà sàn vách gỗ hay vách tre tạo sự thông thoáng cho việc nấu nướng không bị khói hun. Diện tích căn bếp nhỏ hơn nhà chính, đầu hồi bếp thường là nơi dùng để sơ chế thức ăn và rửa chén bát. Bên cạnh chỗ rửa, hầu như nhà nào cũng đặt một cái cối bằng gỗ. Ngày xưa, người ta dùng cối giã gạo. Giờ có máy xát gạo rồi, họ dùng cối để giã lá mì, muối ớt. Chiếc cối thường được đục thủ công từ một gốc cây nguyên khối vỏ ngoài còn xù xì nhưng bên trong thì nhẵn bóng. Tôi từng được ăn lá mì xào trong một bữa cơm của gia đình phụ huynh. Lá mì nấu với cá cơm khô thôi mà sao ngon đến lạ. Phải chăng lá mì đó được giã từ cối gỗ hương vị cũng khác hẳn so với giã bằng cối inox hay vò bằng tay mà tôi vẫn thường làm.
Điều đặc biệt là dù nhà bếp được dựng hoàn toàn bằng gỗ nhưng người Jrai rất có ý thức phòng cháy nên chả mấy khi bị “bà hỏa” ghé thăm. Nơi đặt bếp nấu ăn được quây thành hình vuông cách vách nhà một khoảng cách nhất định để tránh lửa tiếp xúc với vách. Mỗi cạnh bếp dài khoảng 1,2 m được dựng bởi 4 miếng ván cao độ 20 cm chắc chắn. Trong khung bếp chứa đầy tro nén để đảm bảo lửa không cháy lan ra ngoài. Ở giữa, người ta kê 1 chiếc kiềng ba chân dùng để nấu nướng. Người phụ nữ Jrai từ bao đời nay luôn giữ cho căn bếp nhà mình đỏ lửa vì đó là biểu hiện của sự no đủ, ấm cúng. Những lúc nấu ăn xong, họ thường gạt tro vùi than lại để bữa nấu kế tiếp chỉ cần cời tro nóng là có thể dễ dàng nhóm bếp.
Một gian bếp của người Jrai được làm riêng bên ngoài nhà dài. Ảnh: Mai Hương
Một gian bếp của người Jrai được làm riêng bên ngoài nhà dài. Ảnh: Mai Hương
Theo phong tục, người Jrai ăn 2 bữa chính trong ngày. Bữa sáng thường diễn ra vào lúc 8 giờ. Cơm nước xong xuôi, họ chuẩn bị đồ dùng lên rẫy hoặc chăn thả gia súc. Bữa chiều bắt đầu sớm hơn, 3 giờ đã sửa soạn. Họ không ăn 3 bữa như người Kinh nên tôi thường chứng kiến những câu chuyện dở khóc dở cười của học trò. Buổi sáng đi học, có em đói quá tranh thủ giờ ra chơi chạy về ăn cơm rồi lại vội vã trở lại trường, lắm khi bị quá giờ.
Phía trên bếp, người ta làm một cái kệ bằng tre. Trên đó gác đủ các dụng cụ cũng đan bằng tre như rổ, rá, thúng, nia, gùi hay quả bầu khô đựng hạt giống. Hơi lửa lâu ngày làm các dụng cụ ngả màu nâu sậm và không bị mối mọt, khi dùng sẽ bền hơn. Người Jrai không có thói quen dùng tủ lạnh để bảo quản thực phẩm. Thay vào đó, dưới cái kệ bằng tre, họ dùng làm nơi cất giữ thực phẩm để dành bằng cách để hơi lửa làm khô thực phẩm. Những thực phẩm gác bếp có thể là thịt bò, heo hay cá đồng tạo nên món ngon khó cưỡng khi nấu sền sệt cùng măng rừng, cà đắng kèm theo nắm ớt hiểm vô cùng kích thích vị giác.
Người Jrai sống gần các bìa rừng nên việc kiếm củi cũng thuận tiện. Củi được lấy từ những cây trong vườn hay cây dại mọc quanh nương rẫy, ven các con suối. Phụ nữ Jrai có sự chuẩn bị trước để căn bếp nhà mình luôn sẵn củi nấu. Vào lúc rảnh rỗi, trời khô ráo, họ chặt củi chất đầy gầm sàn để củi khô dần. Tôi thường bắt gặp trên đường hình ảnh từng tốp phụ nữ gùi củi về làng. Những thanh củi được chặt với độ dài đều nhau chừng hơn 1 m thuận lợi cho việc xếp vào gùi. Nhìn vào sàn nhà nào có đống củi lớn được xếp ngay ngắn là ta biết người phụ nữ trong gia đình ấy rất đảm đang, tháo vát. Theo phong tục của người Jrai, củi được chất đầy gầm sàn cũng là một điều kiện để cô gái “bắt chồng”.
Gian bếp được sắp đặt gọn gàng hay những món ăn ngon thể hiện tình yêu, sự chăm sóc của người phụ nữ. Nó là sợi chỉ xanh kết chặt tình thân của bao thế hệ trong gia đình.
MAI HƯƠNG

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

null