Dinh Bà ở Cửu An thờ ai?

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
(GLO)- Tên gọi “dinh Bà” cho chúng ta biết rằng đây là nơi thờ nữ thần, nhưng là vị thần nào thì thực tế khá phức tạp song lại rất thú vị. Bởi tìm hiểu sâu vấn đề này, chúng ta sẽ thấy được đặc tính cũng như lịch sử văn hóa tín ngưỡng của cư dân vùng Cửu An từ thế kỷ XVIII đến nay.

Dinh Bà còn gọi là miếu An Điền, miếu An Điền Bắc, hiện thuộc địa bàn thôn An Điền Bắc, xã Cửu An, thị xã An Khê. Ngôi miếu này được xem là vết tích xa xưa nhất còn lại được người địa phương vùng Cửu An ghi nhận, chứng cứ lịch sử hiện còn là bức bình phong và 2 trụ biểu cũ có niên đại ước đoán cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Như tên gọi dân gian, “dinh Bà” hẳn nhiên là nơi thờ phụng nữ thần. Tuy nhiên, đó là vị thần hay những vị thần nào thì mỗi nguồn tài liệu cho biết các thông tin khác nhau.

Văn cúng tại dinh Bà hiện còn lưu giữ gồm loại văn bản viết bằng chữ Nho và văn bản phiên âm ra chữ Quốc ngữ đang sử dụng. Tổng hợp từ 2 nguồn văn bản này, chúng tôi thấy, trong các vị thần linh được thờ phụng tại dinh có 3 vị nữ thần là Thiên Y A Na Diễn Ngọc phi, Nguyên hoàng Hậu thổ Vạn Phước phu nhân và Chúa Ngung man nương.

Từ nguồn tài liệu khác như tập “Ấp Tây Sơn Nhì-Những tục danh di tích Tây Sơn” (UBND xã Cửu An, Tài liệu đánh máy lưu hành nội bộ, 2003) cho biết: “Bà” ở đây còn có thể hiểu là “Bà Hỏa” (thần Lửa).

Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn (bìa trái) trao đổi với người dân địa phương về thông tin liên quan đến dinh Bà. Ảnh: Ngọc Minh

Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn (bìa trái) trao đổi với người dân địa phương về thông tin liên quan đến dinh Bà. Ảnh: Ngọc Minh

Từ nguồn điền dã thu thập thông tin tại xã Cửu An, ông Trần Thanh Luân-Trưởng ban Quản lý đình Cửu An-cho biết: “Bà” ở đây là Thiên Y A Na. Còn ông Trương Văn Thiệu (SN 1932, sống gần dinh Bà) và ông Trương Nghiệp (SN 1934) thì đều cho rằng đó là “bà vợ của ông Nguyễn Nhạc”.

Như vậy có tất cả 5 vị nữ thần từ các nguồn tài liệu chúng tôi thu thập được.

Thiên Y A Na Diễn Ngọc phi thường được dân gian gọi tắt là “Bà Thiên Y”, “Bà A Na”, vốn là “Bà Mẹ xứ sở” của người Chăm, sau đó được Việt hóa, nên còn tên gọi khác là “Bà Chúa Ngọc”, “Bà Chúa Tiên”.

Quyền lực của Bà Thiên Y bao trùm cả vùng miền rộng lớn bao gồm nhiều làng xã, không chỉ bảo hộ cho những người làm ruộng nương, mà còn bảo hộ cho cả người buôn bán, đánh bắt thủy-hải sản. Hầu hết các đình miếu ở thị xã An Khê lẫn huyện Đak Pơ đều thờ Bà Thiên Y.

“Chúa Ngung man nương” suy luận từ mặt chữ có nghĩa đen là bà chúa của núi rừng người Thượng, có khi được đồng hóa với Bà Thiên Y, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa xứ, Poh Yang Inư Nagar, gắn với tín ngưỡng thờ nữ thần của người Chăm. Tục thờ Chúa Ngung man nương gắn với tục và lễ tá thổ (mượn đất). Tục này xưa từng phổ biến ở vùng Cửu An nhưng nay đã mai một. Chúng ta cũng có thể thấy lễ tá thổ khá phổ biến tại các tỉnh: Khánh Hòa, Phú Yên.

“Chúa Ngung man nương” là một danh từ chung. Vì vậy, có thể hiểu đó là “Bà vợ người dân tộc thiểu số của ông Nguyễn Nhạc”. Bởi theo truyền thuyết, bà cũng có tư cách của một nữ chúa.

Trong văn cúng đất (tá thổ) tại một số tỉnh miền Trung như: Bình Định, Phú Yên cũng thường xuất hiện danh hiệu “Vạn Phước phu nhân”. Nguồn gốc của vị nữ thần này khá bí ẩn, có người cho bà là vợ của “Khai hoàng Đại đế Hậu thổ Nguyên quân”. Như vậy, “Vạn Phước phu nhân” có thể là “Mẹ Đất” hay nữ thần cai quản đất đai.

Còn “Bà Hỏa” không phải thần Lửa trong huyền thoại hay được thờ tại các “dinh Cô” trong sân đình miếu mà là nhân vật lịch sử thời Tây Sơn, tham gia phong trào khởi nghĩa với anh em Nguyễn Nhạc, được sử xưa gọi là “nữ chúa Chiêm Thành (tên Thị Hỏa)”.

Các di tích thời Tây Sơn ở Cửu An gắn liền với tên tuổi của “Tây Sơn Tam kiệt” (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) và Yă Đố-một nhân vật đặc biệt người Bahnar có mối quan hệ vợ chồng với Nguyễn Nhạc. Bà còn nhiều danh xưng khác như: Cô Hầu, Cô Hầu Đốc Tướng...

Các tên gọi “Bà vợ của ông Nguyễn Nhạc”, “Bà Yă Đố” chỉ một người hay nhiều người khác nhau vẫn là một vấn đề chưa được làm sáng tỏ. Bởi bà vợ Nguyễn Nhạc là một nhân vật có thật trong lịch sử nhưng lại được bao phủ trong nhiều câu chuyện mang tính huyền thoại mà các tài liệu và kết quả hiện tại chưa minh định được.

Trong khi đi thực địa tìm hiểu thông tin liên quan đến dinh Bà, chúng tôi thu thập được những câu chuyện liên quan đến mối quan hệ giữa 2 danh xưng này. Trong đó, có những chuyện kể cho rằng người được thờ trong dinh Bà ở đây là bà vợ người dân tộc thiểu số của Nguyễn Nhạc. Còn tên bà là gì thì hiếm người nói giống sách vở là “Bà Yă Đố”.

Ông Nguyễn Văn Sáu (SN 1957, xã Cửu An)-người dành nhiều thời gian tìm hiểu lịch sử, văn hóa vùng Cửu An và ghi chép lại-cho biết: “Bà” được thờ phụng nơi đây là người dân tộc tại chỗ. Sở dĩ được thờ cúng là bởi bà có công khai hoang, giúp nhà Tây Sơn gây dựng cơ nghiệp. Trước kia, mỗi lần dinh Bà cúng, con cháu Bà Yă Đố còn về tham dự, nhưng mấy năm gần đây không thấy nữa.

Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn bên bình phong và trụ biểu trước dinh Bà. Ảnh tư liệu LHS

Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn bên bình phong và trụ biểu trước dinh Bà. Ảnh tư liệu LHS

Như vậy, dựa vào tên gọi, chúng ta có thể xác định rằng thần chủ (vị thần chính) của dinh Bà tại Cửu An là nữ thần, các thần linh khác ghi trong văn cúng là phối thờ, tòng tự (thờ theo, đóng vai trò phụ). Tuy nhiên, “Bà” ở đây lại không phải một vị mà gồm nhiều vị, tính riêng văn cúng đã có 3 vị: Thiên Y A Na, Chúa Ngung man nương và Vạn Phước phu nhân.

Dù đã được văn bản hóa nhưng các vị thần này cũng đều là tín ngưỡng dân gian. Thế nên các vị có tên ngoài văn cúng chính thức tại dinh Bà như Bà Hỏa, Bà vợ ông Nguyễn Nhạc/Bà Yă Đố cũng cần được nhìn nhận và chấp nhận thuộc về tín ngưỡng thờ Bà tại dinh, bởi các tư liệu cũng đều phát sinh từ dân gian địa phương này, được người dân tin thờ.

Dinh Bà là ngôi miếu duy nhất tại Cửu An có thần chủ là nữ thần. Đặc biệt, dinh Bà gắn liền với truyền thuyết và tín ngưỡng thờ Yă Đố, người vợ Bahnar của Nguyễn Nhạc-là minh chứng cụ thể cho tình đoàn kết cũng như sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa người Kinh và người Thượng tại vùng Tây Sơn Thượng Đạo. Trên những cơ sở này, cá nhân người viết cho rằng, có thể xem dinh Bà là nơi thờ bà Phi (vợ) người Thượng của Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc với tư cách là vị thần chính.

Tuy có ý nghĩa sâu sắc và giá trị văn hóa, lịch sử độc đáo là thế, nhưng chánh điện dinh Bà đã sụp đổ từ lâu, kiến trúc thay thế hiện tại rất sơ sài. Những cấu kiện kiến trúc cổ xưa còn lại thì xuống cấp nghiêm trọng, nguy cơ sụp đổ hoàn toàn nếu không kịp thời có biện pháp gia cố, trùng tu đúng đắn.

Năm 2022, dinh Bà được xếp vào danh mục các điểm di tích quốc gia đặc biệt thuộc Quần thể di tích Tây Sơn Thượng đạo. Hy vọng, trên cơ sở này, dinh Bà sẽ được quan tâm nhiều hơn và việc xây tượng đài 2 vợ chồng vị vua đầu tiên của nhà Tây Sơn tại dinh Bà hoặc An Khê trường sẽ là một ý tưởng hay, làm nên nét hấp dẫn đặc sắc cho khu di tích Tây Sơn Thượng đạo.

Có thể bạn quan tâm

Cần phát huy giá trị di tích: “Địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947”

Cần phát huy giá trị di tích: “Địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947”

(GLO)- Sáng 6-11, tại TP. Pleiku, Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai tổ chức hội thảo khoa học di tích lịch sử “Địa điểm vụ thảm sát nhân dân làng Tân Lập năm 1947, xã Kông Bơ La, huyện Kbang” nhằm hoàn thiện hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền đề nghị xếp hạng di tích quốc gia.

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

(GLO)- Nằm trong khuôn khổ Tuần lễ hoa dã quỳ-núi lửa Chư Đang Ya, chiều 9-11, tại khu vực sân nhà rông làng Gri, xã Chư Đang Ya (huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai), Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND huyện Chư Păh tổ chức trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống.

Các nghệ nhân làng Chuet 2 (phường Thắng Lợi) phục dựng lễ báo hiếu cha mẹ tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Thu

Lễ báo hiếu của người Jrai

(GLO)- Lễ báo hiếu cha mẹ là tập tục văn hóa truyền thống đã có từ xa xưa trong đời sống của cộng đồng người Jrai. Đây là dịp để những người con đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục và cầu mong thần linh ban sức khỏe cho cha mẹ.

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

(GLO)- Cách đây gần 18 năm, trong một số công trình điều tra văn hóa các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở TP. Pleiku thì người ta xếp một số buôn làng trong khu vực, trong đó có làng Wâu và Ktu (xã Chư Á) là làng tương đối có giá trị, đưa vào diện bảo tồn và phát triển.

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

(GLO)- Cứ mỗi buổi sinh hoạt, khuôn viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Lơ Pang (xã Lơ Pang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai) lại rộn ràng tiếng cồng chiêng. Âm thanh quen thuộc ấy đến từ đôi tay nhỏ bé của các em học sinh thuộc Câu lạc bộ (CLB) Cồng chiêng của trường.

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

(GLO)- Không chỉ dệt thổ cẩm giỏi, chị Rah Lan H’Nghí (SN 1988, buôn Toát, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) còn nhiệt tình chỉ dạy cho chị em trong buôn để góp phần bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

(GLO)- Chính quyền TP. Pleiku đã dành nguồn lực đầu tư để Plei Ốp thành điểm đến của du khách trải nghiệm văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc Jrai thông qua phục dựng một số lễ hội cộng đồng như: cúng giọt nước, pơ thi…

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

(GLO)-Nhiều năm qua, người dân làng Kte (xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) luôn dành sự yêu mến và kính trọng đối với bà Rơ Châm Nguyên bởi bà biết hát và lưu giữ nhiều bài dân ca của dân tộc Jrai.