Cụ bà nặng lòng với ca trù

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Nhắc đến ca trù, chắc hẳn ai cũng nghĩ đây là một loại hình âm nhạc khó tiếp cận, bởi lẽ ca trù có tính uyên bác cũng như độ phổ biến chưa rộng như các loại hình khác. Ấy vậy mà tại một vùng quê lúa ngoại thành Hà Nội, có bà cụ già gần 90 tuổi vẫn thuộc làu từng làn điệu ca trù cổ và hàng ngày vẫn mải mê truyền dạy cho trẻ em trong thôn. Đó chính là cụ Nguyễn Thị Khướu ở Chanh Thôn, xã Văn Nhân, huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội.

Thăng trầm nghề nghiệp

Chanh Thôn là một ngôi làng nhỏ nằm ven sông Hồng có nhịp sống chậm rãi của một làng quê. Năm nay đã bước sang tuổi cửu tuần nhưng cụ Khướu vẫn còn rất minh mẫn, nhận ra chúng tôi đến tìm hiểu về ca trù, cụ vội mời chúng tôi vào nhà. Cụ mở lòng: “Tôi già lắm rồi, không biết đi lúc nào, có cơ hội được nói, được diễn là tôi phải cố tận dụng cho kỳ được”.

 

Tuy tuổi đã cao nhưng cụ Nguyễn Thị Khướu vẫn có thể đọc được các bài ca trù trong cuốn sách tổng hợp mà Nhạc viện Hà Nội kính tặng cụ.
Tuy tuổi đã cao nhưng cụ Nguyễn Thị Khướu vẫn có thể đọc được các bài ca trù trong cuốn sách tổng hợp mà Nhạc viện Hà Nội kính tặng cụ.

Hát ca trù ngày xưa vốn là loại hình hát cung đình, dành cho tầng lớp trên thưởng thức, theo cụ Khướu, ca trù đến với Chanh Thôn một cách ngẫu nhiên, nhiều năm về trước có một kép đàn bên Hưng Yên về làng ở rể, ông thường gẩy đàn và hát một mình những lúc nhàn rỗi, dần dần dân làng thấy hay nô nức đến học. Từ thời bà nội của cụ Khướu, Chanh Thôn đã vang danh khắp đất Bắc Kỳ là làng hát ca trù hay số một, bản thân bà nội cụ Khướu cũng là một ca nương có tiếng, nhiều lần vào cung biểu diễn cho bá quan văn võ.

Lớn lên trong gia đình nhà nòi, cụ Khướu học hát ca trù từ năm 11 tuổi và đến năm 14 tuổi đã được bà nội cho đi diễn cùng, “hồi đó mỗi lần đi hát cùng bà, được cho bánh trái là mừng khôn xiết, nhưng thích nhất là lúc hát xong mọi người đánh trống chầu và vỗ tay ầm ầm”.

Ca trù ngày xưa thịnh hành, hễ đám cưới, hội hè, ngày vui gì đều hát ca trù, nhưng thù lao chẳng được bao, hơn nữa chi phí đi lại cũng hết, nhưng cụ bảo “có lẽ gần như tất cả các làng ở Bắc bộ này tôi đều đi hết rồi, hồi trẻ đam mê lắm, mà hát ca trù kiêng khem lắm thứ, nào là không được uống rượu, ăn cay, ăn tanh… phải giữ tiếng thì giọng mới mềm mại được”.

Đi hát được vài năm thì Cách mạng Tháng Tám nổ ra, cả nước sục sôi trong không khí kháng chiến, cụ Khướu cũng như bao thanh niên trai tráng trong thôn tạm gác công việc riêng tham gia cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ca trù bị xem là thứ giải trí không lành mạnh, nhà cụ Khướu đi xuống khi cái nghề “kiếm cơm” cũng không thể dùng được.

Tiếng hát át tiếng lòng

Thời kỳ trước đổi mới năm 1986, cụ Khướu gần như không đi biểu diễn, chỉ hát ở làng và một số vùng lân cận do không ai thuê. “Ca trù hồi đó tưởng chừng như mất hẳn, tôi cũng chỉ tự hát rồi tự nghe cho đỡ nhớ”. Cụ Khướu từ một ca nương phải trở về với ruộng đồng, cày cấy. Thậm chí, các con của cụ cũng không ai mặn mà với ca trù, cụ nhớ có lần đám cưới con, cụ bảo để rủ mấy bà bạn trong làng về hát ca trù giúp vui đám cưới nhưng các con không nghe, cụ buồn lắm.

Cụ Khướu vốn không thông thạo mặt chữ nên những bài ca trù cổ mà bà cụ truyền lại cụ chỉ cố nhớ. Bao năm cụ Khướu không có nổi một học trò để truyền nghề.

Ở Chanh Thôn, những người hát ca trù hay cứ dần dần ra đi theo quy luật của thời gian, đến năm 2007 chỉ còn cụ Nguyễn Thị Vượn và cụ Nguyễn Thị Khướu cùng nhạc công đồng Vũ Văn Khoái là những người thông thạo còn sót lại. Để giữ lại một nghệ thuật dân gian đang có nguy cơ mai một, 3 cụ đã cùng nhau vận động con cháu trong làng mở CLB Ca trù Chanh Thôn (năm 2007), ban đầu cũng chỉ thu hút được một vài người về sau càng ngày càng đông dần lên, hiện tại là 25 thành viên.

Rồi cụ Khoái cũng đã ra đi, cụ Vượn bị lẫn, CLB Ca trù chỉ còn trông cậy vào duy nhất cụ Khướu. Mỗi một tuần CLB sinh hoạt 1 đến 2 lần tại đình làng, nhưng cụ bảo “có nhiều đứa học được vài buổi thì bỏ, tôi buồn lắm”. Với quyết tâm làm một điều ý nghĩa trước khi lìa đời, cụ Khướu đã đến từng nhà vận động từng cháu gái, thậm chí có lần phụ huynh các cháu còn nói, ca trù sao kiếm sống được, ca trù chỉ để nghe chơi thôi. Nghe vậy lòng cụ nhói đau!

Không chỉ dạy ca trù đơn thuần, cụ Khướu còn dạy ý nghĩa của ca trù đối với cuộc sống, cụ bảo “ca trù đều là những vần thơ hay, có ý nghĩa, do tầng lớp trí thức xưa sáng tác, chính vì vậy hát không chỉ để nghe mà còn để ngẫm. Tôi muốn các cháu biết ngày xưa ông cha ta nghe gì, giải trí gì, để các tự hào về vốn văn hóa của dân tộc”. Rồi cụ ca mấy câu trong các bài Hơn nhau một chữ thì, Kiếp nhân sinh, Hồng hồng tuyết tuyết.

Mong ước tuổi già

Kể từ khi ca trù Chanh Thôn được Trung tâm Văn hóa tỉnh Hà Tây (cũ) phát hiện năm 2007, cụ Khướu nhiều lần được mời đi lưu diễn, cụ cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn. Cụ được tiếp xúc với nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đặc biệt là GS Tô Ngọc Thanh - Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, “ông Thanh rất coi trọng ca trù và luôn động viên chúng tôi cố gắng truyền nghề khi còn có thể”.

Nhưng theo cụ một năm vẫn có quá ít cơ hội cho ca trù, chỉ có dịp tết, Liên hoan ca trù toàn quốc, Giỗ tổ Hùng Vương. “Văn ôn võ luyện” mà một năm có 2-3 lần thì không thể giỏi được, đấy là chưa kể các cháu có duy trì được tình yêu dài với ca trù không - cụ trầm ngâm.

Cụ Khướu ước mơ có một chuyên ngành đào tạo chính quy ca trù giống như tuồng, chèo... Cụ bảo “phải có ngành học chính quy, sách vở hẳn hoi và đầu ra thì sẽ khơi dậy không ít năng khiếu”.

Với sự đóng góp của mình vào sự nghiệp gìn giữ ca trù, cụ Khướu đã được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú loại hình Biểu diễn nghệ thuật dân gian năm 2015.

Theo sggp

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null