Cổng làng và sự biến dịch văn hóa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Cuốn sách “Cổng làng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ” dày gần 300 trang với nhiều ảnh, biểu đồ, do Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc ấn hành, là sự phát triển từ Luận án Tiến sĩ của Vũ Thị Thu Hà - Hiệu trưởng trường THCS Tô Hoàng (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Cuốn sách nằm trong đề án Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật (VHNT) các dân tộc thiểu số Việt Nam của Liên hiệp các Hội VHNTVN và Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam. Một cuộc trò chuyện với TS Vũ Thị Thu Hà về cổng làng người Việt.

 Cổng Miễu làng Dương Đình, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ảnh do nhân vật cung cấp
Cổng Miễu làng Dương Đình, xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ảnh do nhân vật cung cấp


Cổng làng có giá trị quan trọng trong đời sống người Việt ở châu thổ Bắc Bộ là một chủ đề rộng, mang tính phổ quát nên hẳn chị phải chọn cho mình một tiêu điểm riêng? Và việc tìm tài liệu có phải là thách thức với chị?

- Cổng làng là một bộ phận cấu thành của thực thể làng Việt, có vai trò và chức năng thể hiện khát vọng, ước mơ người dân làng Việt. Ngoài sự tồn tại của cổng làng như một nhân chứng của lịch sử, chứng kiến những thăng trầm của con người thì cổng làng còn là vách ngăn, một thứ phân tầng của xã hội Việt Nam, nó là sự phân định giữa bên trong và bên ngoài...

Quá trình tìm tư liệu về cổng làng của tôi bắt đầu từ cuốn “Thằng Vanh - hồi ức thời niên thiếu” của tác giả Phan Hữu Dật. Trong hồi ức về thời niên thiếu, ông viết như sau: “Các làng miền Trung nước ta làm gì có cổng làng. Ở đồng bằng Bắc Bộ, làng có cổng làng thực sự rất vững chắc. Muốn vào làng phải qua cổng làng. Xung quanh làng rào kín mít, chủ yếu bằng các hàng cây tre trồng xanh tốt. Ở làng tôi, người ngoài muốn vào ra ngả nào, chỗ nào cũng được”. Sở dĩ chúng tôi trình bày về châu thổ Bắc Bộ bởi chỉ làng Việt ở Bắc Bộ mới có cổng làng truyền thống.

Nếu làng Việt vùng châu thổ Bắc Bộ được giới nghiên cứu quan tâm bao nhiêu thì chiếc cổng làng lại được ít được chú ý bấy nhiêu. Những tài liệu đề cập đến cổng làng thực sự ít ỏi. Đặc biệt hơn tôi cũng tìm hiểu trên các văn bia ở các làng tôi đã từng đến, tìm trong hương ước của làng, trong tuyển tập 5.000 hoành phi câu đối của tác giả Đinh Bá Thân và Phan Thị Thùy Vinh để tìm xem trên các văn bia có ghi năm xây dựng hay tu sửa cổng làng mục đích để biết được cổng làng đó được xây từ năm nào nhưng đều không cho thông tin nào, mặc dù những việc lớn nhỏ của làng đều được lưu giữ trên các văn bia, văn chỉ của làng... và cuối cùng tôi quyết định dùng phương pháp tập hợp cứ liệu, hồi cố phỏng vấn để tìm hiểu sâu hơn về cổng làng bằng phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian trong suốt 7 năm điền dã về các làng quê để được tìm hiểu thêm về chiếc cổng làng Việt.

Chị có nghe được nhiều câu chuyện đáng suy ngẫm phía sau cánh cổng làng từ các nghệ nhân, những “báu vật nhân văn sống” ở làng?

- Trong các chuyến đi điền dã tôi đã được tiếp xúc với người dân của làng, được nghe những câu chuyện khá thú vị về chiếc cổng làng họ, qua lời kể với niềm tự hào về chiếc cổng và kèm theo những câu chuyện gắn với nhiều tính thiêng của của như chuyện ma quỷ, chuyện xâm hại đến cổng làng thì sẽ nhận được kết cục thật rùng rợn và điều này lại hé lộ trong tôi một câu hỏi bấy lâu nay còn đang thắc mắc(?). Tại sao cổng làng cũ kĩ vẫn còn được lưu giữ mặc cho sự biến đổi đến chóng mặt của cảnh quan làng? Phải chăng con người đã gán cho nó tính thiêng để gìn giữ cổng làng khỏi các thế lực muốn phá bỏ, xâm hại? Hay những câu chuyện đói kém mất mùa của làng năm đó trùng hợp với việc xây cổng làng nên họa tiết trang trí trên cổng là những cây khoai, cây dáy như dấu mốc hay dụ ý nhắc nhở dân làng nhớ đến những ngày đói khổ mà đến lúc ấm no thì cần ôn nghèo kể khổ?

Sự biến đổi của cổng làng cũng thể hiện sự biến dịch về văn hóa. Chị có thể nói khái quát về 2 mặt của vấn đề này?

- Cổng làng của người Việt ở Châu thổ Bắc Bộ có các chức năng: Phòng vệ, kiểm soát, thẩm mĩ, giáo dục và thông tin. Theo thời gian, các chức năng này có vai trò khác nhau. Có lẽ trong thời gian đầu, chức năng phòng vệ đóng vai trò quan trọng. Khi điều kiện kinh tế khá giả những cánh cổng gỗ lớn nặng trịch có tác dụng tốt hơn trong việc chống cướp, chống giặc, ngăn cản nước lũ. Trong thời gian đầu cổng làng chưa được cao lớn rộng rãi, với những trang trí mĩ thuật công phu, tinh xảo với những chữ đại tự, những câu đối thăng trầm nhiều ý nghĩa. Càng về sau chức năng thẩm mĩ và chức năng giáo dục càng được nhiều người đứng đầu và dân làng quan tâm hơn.

Khu vực cổng làng cũng là nơi người ta gặp gỡ trao đổi để đưa và nhận thông tin. Ngoài ra chính bản thân cổng làng cũng có giá trị thông tin. Cổng làng bề thế cho biết đó là một làng trù phú. Cổng làng có nhiều câu đối hay, những đại tự cùng với biểu tượng bút nghiên cuốn thư mách bảo rằng đây là một làng khoa bảng. Cổng làng đơn sơ ít chữ nghĩa, đường làng chưa được lát gạch, gần cổng không có cây cổ thụ cho thấy đây là một làng tương đối mới. Trên ở khía cạnh này có thể nói đến chức năng biểu tượng của làng.

Vai trò và chức năng của cổng làng xưa và nay chính là sự thay đổi của giai đoạn lịch sử nhất định. Xưa kia cổng làng nhỏ gọn, dành cho người đi bộ thì nay cổng làng to rộng xe cộ có thể qua lại dễ dàng phù hợp với những ngôi nhà cao tầng nằm sâu trong làng. Các chữ ghi trên cổng làng trước kia là chữ nho nay được thay thế là chữ quốc ngữ để dễ đọc và nhiều người có thể đọc được. Chức năng phân định làng từ ranh giới giữa khu vực ngụ cư với khu vực canh tác thì nay cổng làng đã vượt ra cả khu vực canh tác. Sự uy nghi và tính thiêng của cổng làng dần dần mất đi bởi diện tích đất dần thu hẹp, người ta có thể sẵn sàng phá dỡ cổng làng vì bị cho là vướng, và thay vào đó là những chiếc cổng chào to, với những dòng chữ mang tính khẩu hiệu “làng văn hóa”.

Có lẽ sự thay đổi đó là tất yếu và phù hợp với xu thế của thời đại?

- Cảm ơn chị và chờ đón thêm những công trình nghiên cứu của chị về văn hóa dân tộc!

https://laodong.vn/van-hoa-giai-tri/cong-lang-va-su-bien-dich-van-hoa-871986.ldo
 

Theo VIỆT VĂN (thực hiện/LĐO)

Có thể bạn quan tâm

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh Gia Lai

(GLO)- Nhiều lần đến tham quan Bảo tàng Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng tỉnh Gia Lai), nhà giáo Tạ Chí Tào rất tâm đắc với những hiện vật thể hiện tấm lòng của người dân Tây Nguyên đối với Bác. Vì vậy, ông đã quyết định trao tặng một số hiện vật liên quan đến Bác Hồ mà mình đã sưu tầm cho Bảo tàng tỉnh.

Tương lai viết nên từ bản lĩnh văn hóa

Tương lai viết nên từ bản lĩnh văn hóa

Di sản nếu không được số hóa, không được kể lại theo cách của thời đại sẽ dần bị đứt gãy trong trí nhớ cộng đồng. Một thế hệ lớn lên không thấy được những giá trị đã tạo nên cội nguồn sẽ khó tìm thấy niềm tự hào, khó kiến tạo tương lai có chiều sâu văn hóa.

Di sản người Anh hùng trên đất Tây Nguyên

Di sản người Anh hùng trên đất Tây Nguyên

(GLO)- Giữa cái nắng oi ả của tháng 4, chúng tôi từ TP. Pleiku vượt hơn 70 km về thăm làng Stơr (xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai), quê hương của Anh hùng Núp. Nơi đây có nhà lưu niệm mang dấu ấn lịch sử-văn hóa độc đáo, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu.

Di sản Hán Nôm: Khai mở lịch sử văn hóa Gia Lai

Di sản Hán Nôm khai mở lịch sử văn hóa Gia Lai

(GLO)- Có những trầm tích văn hóa nằm im lìm trong những đạo sắc phong cũ kỹ, tờ khế ước ruộng đất phủ bụi thời gian hay văn tế cổ xưa xướng lên nơi đình làng. Tại Gia Lai, kho báu di sản Hán Nôm ấy đang dần được đánh thức, góp phần khai mở lịch sử văn hóa của vùng đất cao nguyên.

Làng Mông trên cao nguyên

Làng người Mông trên cao nguyên

(GLO)- Tính đến thời điểm này, những hộ gia đình người Mông đã sinh sống được 42 năm trên cao nguyên Gia Lai. Vùng đất mà họ chọn là xã Ya Hội, huyện Đak Pơ. Theo thời gian, dấu ấn người Mông ngày càng in đậm trên mảnh đất này.

Tái hiện không gian sinh hoạt cộng đồng của cư dân lúa nước vùng hạ lưu sông Ba

Tái hiện không gian sinh hoạt cộng đồng của cư dân lúa nước vùng hạ lưu sông Ba

(GLO)- Thoát khỏi không gian gò bó trên sân khấu, Ngày hội văn hóa-thể thao các dân tộc thiểu số huyện Krông Pa lần thứ III-2025 được tổ chức dưới những bóng cây cổ thụ trong Công viên Phú Túc đã tái hiện một cách chân thực không gian sinh hoạt cộng đồng của cư dân lúa nước vùng hạ lưu sông Ba.

Phụ nữ làng Groi phát huy nghề dệt thổ cẩm

Phụ nữ làng Groi phát huy nghề dệt thổ cẩm

(GLO)- Gần 2 năm đi vào hoạt động, Câu lạc bộ (CLB) Dệt thổ cẩm làng Groi (xã Ya Hội, huyện Đak Pơ) đã trở thành mái nhà chung cho những phụ nữ yêu thích nghề dệt. Thông qua các buổi sinh hoạt, chị em có cơ hội giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và chung tay gìn giữ, phát huy nghề dệt truyền thống.

Lễ cúng bến nước. Ảnh: M.H

Bến nước buôn Pông

(GLO)- Bến nước, dòng sông cũng như tập tục của bà con Jrai đã trở nên quen thuộc với tôi trong thời gian dài công tác tại ngôi trường bên bờ sông Ba.

Sáp nhập đơn vị hành chính gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

Sáp nhập đơn vị hành chính gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

(GLO)- Thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị là yêu cầu mang tính sống còn của đất nước trước vận hội phát triển mới. Trong đó, sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã để xây dựng mô hình chính quyền 2 cấp đang được dư luận hết sức quan tâm.

Nâng tầm nghề dệt thổ cẩm ở Chư Pưh

Nâng tầm nghề dệt thổ cẩm ở Chư Pưh

(GLO)- Nhờ sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương và các đoàn thể chính trị-xã hội, nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Jrai ở huyện Chư Pưh (tỉnh Gia Lai) đang có cơ hội để nâng tầm phát triển và khẳng định giá trị trong đời sống hiện đại.

Lễ cúng Yă Pum bên bờ sông Ayun

Lễ cúng Yă Pum bên bờ sông Ayun

(GLO)- Sau một thời gian dài gián đoạn, UBND xã Ia Peng (huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai) vừa phục dựng lễ cúng Yă Pum của người Jrai tại thôn Sô Ma Hang A. Đây là hoạt động tâm linh với ý nghĩa xua đuổi tà ma, cầu bình an, sức khỏe cho dân làng.