Chuyện chưa kể về trại phong Quy Hòa - Kỳ 1: Vùng biệt lập của những người cùi

Đằng sau căn bệnh phong (cùi) kinh hoàng một thời gieo rắc nỗi khiếp đảm cho nhân loại là những tấm lòng bao dung, đức hi sinh cao cả ở một ngôi làng (trại) nằm sâu trong thung lũng Quy Hòa (Quy Nhơn, Bình Định).

Một thời bệnh phong hủi được liệt vào tứ chứng nan y nên người bệnh phải sống trong sự xa lánh, ghẻ lạnh ghê gớm của người đời.

Trại phong Quy Hòa (Quy Nhơn) nằm trong một thung sâu gần như biệt lập với bên ngoài, được dựng lên cách đây gần 90 năm để mang lại chút hi vọng cho người bệnh.

 

 Nhà thờ Quy Hòa được xây dựng từ năm 1933 có móng sâu dưới đất bằng với chiều cao của nhà thờ để chống bão.
Nhà thờ Quy Hòa được xây dựng từ năm 1933 có móng sâu dưới đất bằng với chiều cao của nhà thờ để chống bão.

Đến với người khổ đau

Năm 1929, bác sĩ Lemoine - người điều hành Bệnh viện Bình Định - thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân phong.

Ông thao thức tìm cách giúp họ “có được chút niềm vui để sống, để hi vọng”. Vị bác sĩ này trình bày với chính quyền bảo hộ Pháp một dự án táo bạo thành lập trại phong.

Bình Định lúc ấy có 360 người mắc bệnh phong, chưa kể những người sống lang thang ngoài đường hay ẩn trốn tại gia đình. Theo bác sĩ Lemoine, tỉnh này đã có hơn 1.200 bệnh nhân phong trên khoảng 70.000 dân.

Bác sĩ Lemoine chia sẻ tâm nguyện với đức cha Damien Grangeon - vị đại diện Tông tòa Giáo phận Quy Nhơn.

Không lâu sau, chính quyền bảo hộ chấp thuận và cho phép bác sĩ Lemoine thành lập trại phong ở vùng đất Bến Cát (Quy Hòa, cách Quy Nhơn khoảng 8km).

Đây là một cánh đồng rộng khoảng 100 mẫu, có núi bao vây theo hình vòng cung ở ba phía bắc - tây - nam, phía đông giáp với biển.

Một buổi sáng năm 1929, một chiếc ghe cập Bến Cát chở theo một linh mục ốm gầy với bộ râu dài, đôi mắt sáng cùng một chiếc giường gỗ, một máy quay đĩa nhạc, nhiều sách vở...

Đó là cha Paul Maheu. Ông cùng bác sĩ Lemoine bắt tay ngay vào công việc. Một trung tâm y tế xã hội được thành lập.

Cha Paul Maheu đã dựng một số nhà tranh vách đất cho các bệnh nhân, nhân viên lưu trú. Bác sĩ Lemoine dốc hết tài năng, sức lực để điều trị các bệnh nhân.

Họ xây dựng phòng khám bệnh và phát thuốc. Nơi đây, các bệnh nhân phong có thể tự do lui tới, được tiếp đón như anh chị em trong một gia đình.

Năm đầu tiên, trại đón nhận 52 bệnh nhân, người đầu tiên là ông Nguyễn Văn Con (sinh 1874), nhập viện ngày 20-7-1929.

Từ đó, số bệnh nhân tăng dần theo năm tháng. Bệnh viện phải mở rộng cửa tiếp nhận tất cả bệnh nhân đến từ những tỉnh lân cận, không kể nghèo - giàu.

Điều hai vị quan tâm là làm thế nào để bệnh nhân có thể sống một cách bình an và hạnh phúc. Vì thế cần phải xây cất thêm...

Khi mọi việc còn dang dở, cha Paul Maheu kiệt sức vì công việc và phải về Pháp chữa bệnh, đến ngày 27-2-1931 ông mất ở tuổi 62.

 

Các nữ tu đi tìm địa điểm xây dựng bệnh viện khi đến Quy Hòa - Ảnh tư liệu
Các nữ tu đi tìm địa điểm xây dựng bệnh viện khi đến Quy Hòa - Ảnh tư liệu

Các nữ tu đầu tiên

Để chăm sóc bệnh nhân, cần phải có các nữ tu chuyên nghiệp đảm trách. Ngày 23-9-1932, sáu nữ tu đầu tiên đã khởi hành từ Marseille trên chuyến tàu “Général Messinger”.

Ngày 19-10-1932, các nữ tu đến Sài Gòn. Từ Sài Gòn ra Quy Nhơn, vì đường bộ và thời tiết xấu nên các nữ tu phải đi tàu lửa đến Nha Trang và lên xe đò đến Quy Nhơn.

Để vào Quy Hòa, khi đến chân núi xe không thể vào được vì đường hẹp và quanh co, các các nữ tu phải xuống đi bộ vào thung lũng.

Sau khi đến làng phong, cũng là bệnh viện Quy Hòa lúc ấy, các nữ tu bắt tay ngay vào việc phục vụ bệnh nhân.

Mỗi ngày họ thay băng và rửa vết thương trung bình từ 160 - 180 bệnh nhân, chưa kể những người bệnh thông thường khác. Số bệnh nhân ngày càng tăng thì nơi ở ngày càng bị thu hẹp lại. Các nữ tu phải xây thêm nhà cho bệnh nhân, tuy vẫn là nhà tranh vách đất.

Do vậy, người bệnh được thong dong hơn tại đây cùng với gia đình mình. Mỗi gia đình như thế có một mái nhà nhỏ theo kiểu Việt Nam.

Ngày nay, nếu đi trên con đường ven bờ biển Quy Hòa mát rượi, rợp bóng cây, quần thể trại phong Quy Hòa với nhà thờ, tu viện và khu trị bệnh... liên hoàn như một mỏ neo án ngữ vững chãi trước bờ biển. Vì sao lại có “mỏ neo” này?

Vũng dừa

Những sử liệu còn ghi chép tỉ mỉ trong nhà thờ Quy Hòa kể lại rằng vào lúc 2h30 ngày 1-11-1933, Quy Hòa bị một cơn bão ập đến.

Bên ngoài tiếng sóng biển gầm thét, gió rít lên từng cơn, các cửa kính lớn nhỏ đều vỡ tan tác, nước tràn vào nhà... 5h30 sáng, gió và sóng biển vẫn gào thét. Các nữ tu quyết định ra khỏi nhà đi tìm bệnh nhân.

 

Nữ tu phải đi khất thực

Số bệnh nhân tại Quy Hòa mỗi ngày mỗi tăng, cho đến năm 1974 đã lên đến 5.422 người.

Các nữ tu nhiều quốc tịch khác cùng các nữ tu Pháp, Việt nối tiếp nhau đến Quy Hòa phục vụ.

Có thời điểm bệnh viện hơn 1.000 bệnh nhân mà chỉ có 10 xơ phục vụ. Đã vậy, nhiều ngày họ phải đi khất thực để kiếm thực phẩm và tài chính về nuôi bệnh nhân.

Vừa mở cửa ra, họ thấy ba em bé mồ côi ngồi trước cửa. Ngôi nhà dành cho các em và người giúp việc đã bị sập, một em đang còn bị kẹt trong đống gạch vụn nhưng nhờ một cái trụ nhà che chở nên được bình an.

Tại bệnh viện mọi thứ đều bị đổ sụp, số người bị nhà đổ, gạch đá đè lên được cứu sống, có một người bị chết...

Sau đó, mọi thứ được xây dựng lại, trong đó có nhà thờ. Có lẽ ít có công trình nào mà chiều sâu móng của nhà thờ bằng chiều cao của nhà thờ.

Nơi đây sẽ làm nơi trú ẩn cho bệnh nhân khi có bão lớn hoặc sóng thần. Cùng với đó, một dãy tu viện được xây dựng bao bọc như hình cánh cung kết hợp với nhà thờ tạo thành lá chắn như cái mỏ neo vững chắc để ngăn chặn cuồng phong, sóng lớn.

Theo xơ Hoàng, Quy Hòa lúc bấy giờ đường sá cách trở, việc tiếp tế thuốc thang, các nguồn viện trợ từ nước ngoài vào chủ yếu bằng đường biển.

Khi gặp phải bão gió, tàu có thể mất 2-3 tháng, thậm chí 4-5 tháng mới đến được Quy Hòa. Để chống đói, các xơ cùng bệnh nhân bắt tay vào trồng dừa.

Họ dùng trái dừa để ăn, lấy cơm dừa nấu thành dầu, làm xà phòng, làm thuốc trị thương; lấy lá dừa làm chổi quét, vệ sinh làng... Từ đó, nơi đây có thêm tên gọi khác là Vũng dừa.

Theo tuoitre

Có thể bạn quan tâm

Cho con tiếng nói quê hương

Cho con tiếng nói quê hương

(GLO)- “Chào cả nhà, con là Ben, năm nay con 13 tuổi rồi. Con sống ở Singapore. Con thích ăn cơm gà, chơi điện thoại, chơi bóng chuyền, thích đi Việt Nam…”-cậu bé Benjamin Tan Xin Jie có một clip thú vị như thế để giới thiệu bản thân theo yêu cầu của giáo viên dạy tiếng Việt.

Chư Tan Kra: Các anh đã hòa cùng mây trắng

Chư Tan Kra: Các anh đã hòa cùng mây trắng

Hơn 200 sinh viên từ Hà Nội vào đại ngàn Tây Nguyên. Chư Tan Kra – cao điểm với cái tên nhẹ như một điệu hát của núi rừng, nhưng từng là một trong những chiến trường ác liệt bậc nhất trong thời kỳ chống Mỹ. Và, những người lính ấy đã ngã xuống để giữ bình yên cho mỗi tên đất, tên làng. Các anh đã vĩnh viễn gửi xương máu của mình vào đất, nằm lại nơi đại ngàn đầy nắng gió. Các anh đã ngã xuống cho sự sống được sinh sôi, các anh đã viết nên những trang lịch sử hào hùng, là khúc tráng ca giữa mênh
'Làng giữ rừng' ở thủ đô

'Làng giữ rừng' ở thủ đô

Ở xã Cẩm Lĩnh, H.Ba Vì (TP.Hà Nội) có một 'ngôi làng' đặc biệt được ví là 'Làng giữ rừng', với 19 hộ gia đình là thanh niên xung phong năm xưa đã tình nguyện đi trồng rừng và ở lại giữ rừng cho đến hôm nay.
“Cõng” khách lên ngàn

“Cõng” khách lên ngàn

(GLO)- Hai chân liên tục bơi trên lớp bùn nhão nhoẹt, anh Tưởng Phi Luân-cán bộ kỹ thuật Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng (xã Sơn Lang, huyện Kbang) cố giữ cho xe máy khỏi ngã khi vượt qua đoạn đường trơn trượt như đổ mỡ. Đến đoạn dốc cao gần như thẳng đứng, anh nhắc tôi ngồi sát về phía trước, ôm người anh thật chặt khi chiếc xe tăng ga vượt dốc.

Những người gác rừng nơi "cổng trời"

Những người gác rừng nơi "cổng trời"

(GLO)- Ngôi nhà của Tổ quản lý bảo vệ rừng số 1 thuộc Công ty TNHH một thành viên Lâm nghiệp Kông Chiêng (huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai) nằm lọt thỏm giữa những rặng núi ở cách làng Đê Kôn (xã Hà Ra) chừng 1,3 km. Tuy nhiên, sự cô lẻ không làm các nhân viên gác rừng thoái chí mà tiếp thêm động lực để họ kiên tâm giữ gìn những cánh rừng già. Không những vậy, qua đôi bàn tay tài hoa của các anh, cảnh quan nơi đây ngày càng thêm đẹp.

Nhà nổi ở Trường Sa

Nhà nổi ở Trường Sa

Nhiều ngư dân câu mực ở Quảng Ngãi, Quảng Nam kể lại, năm 1998 đã đi bạn trên tàu câu mực ở thành phố Đà Nẵng. Từ năm 2000 đến nay, nghề câu mực ở Đà Nẵng giảm dần nên ngư dân về quê đóng tàu và bắt đầu những chuyến đi dài ngày ròng rã và tàu cập vào hoặc đi qua hầu hết các đảo Sơn Ca, An Bang, Nam Yết, Trường Sa Lớn, Gạc Ma,…
Trà măng, đừng đánh mất!

Trà măng, đừng đánh mất!

Tác giả Lục Vũ từ thế kỷ 8 có miêu tả loại trà quý nhất là trà măng trong tác phẩm Trà Kinh. Trong số 34/63 tỉnh thành Việt Nam sở hữu cây trà, đến nay Lai Châu và Hà Giang phát hiện trà măng - một niềm tự hào của ngành trà Việt.
Trần Thị Bích Ngọc: Sâu đậm tình yêu văn hóa Bahnar

Trần Thị Bích Ngọc: Sâu đậm tình yêu văn hóa Bahnar

(GLO)- Chiều muộn, lại bận một số việc nhà nhưng thấy chị Trần Thị Bích Ngọc-công chức Văn hóa-Xã hội xã Kông Lơng Khơng (huyện Kbang) ghé thăm, già Đinh Bi vui lắm. Già đã quá quen với cái dáng bé nhỏ thân thuộc của chị, với những lần đến nhà hỏi han, động viên. Vừa chăm chú đan gùi, già vừa gật đầu khi nghe lời nhắn nhủ: “Chú nhớ trong năm nay ráng truyền dạy thành công nghề đan lát cho 1 người trẻ trong làng chú nhé!”.
Dòng máu anh hùng: Con gái của sĩ quan công binh

Dòng máu anh hùng: Con gái của sĩ quan công binh

Trong số 64 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh ngày 14.3.1988 ở Gạc Ma - Trường Sa, có 26 bộ đội của Lữ đoàn 83 công binh hải quân và trong số ấy, có 2 sĩ quan khi hy sinh đã có vợ con ở quê nhà. Đó là thượng úy Nguyễn Minh Tâm (trợ lý thi công) và Trần Văn Phòng (đại đội phó).