Bộ sưu tập ấn và kiếm vàng quý hiếm triều Nguyễn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Những bảo vật hoàng cung này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Ấn và kiếm được coi là vật bảo chứng cho sự hiện diện và xác nhận ý chí, mệnh lệnh của vua.
 
Cuốn sách Bảo vật Hoàng cung triều Nguyễn do Bảo tàng Lịch sử quốc gia và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp thực hiện, xuất bản năm 2016, giới thiệu đến độc giả bộ sưu tập bảo vật vô giá của hoàng cung. Đây là khối di sản có giá trị đặc biệt của quốc gia, là bộ sưu tập cung đình duy nhất, đầy đủ nhất còn tồn tại, phản ánh diện mạo đời sống của vương triều phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Chất liệu chế tác bảo vật đặc biệt quý hiếm, mang biểu tượng của quyền uy hoàng tộc như vàng, bạc, đá quý, các loại ngọc, ngà voi, đồi mồi, kim sa, pha lê... Trong đó phổ biến là vàng, bạc và ngọc. 

 
Biểu trưng cho quyền lực tối cao của các vua và vương triều Nguyễn là các loại ấn. Ấn làm từ vàng, bạc gọi là kim bảo. Ấn làm bằng ngọc gọi là ngọc tỷ. Đây là ấn Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ, dùng cho những bản sắc mệnh ban cho các nước chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ. Mặt ấn khắc nổi 9 chữ triện, phân đều ba hàng dọc và ngang, có nghĩa là "Ngọc tỷ truyền quốc của nước Đại Nam, nhận mệnh lâu dài từ Trời". Ấn được làm năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), là ngọc tỷ quý và lớn nhất trong số các ngọc tỷ của nhà Nguyễn. 
 
 
Ấn Quốc gia tín bảo (vàng, niên hiệu Gia Long) dùng cho các văn kiện triệu tập các tướng lĩnh, phát động binh sĩ, trưng binh nhập ngũ và các văn kiện hành chính quan trọng.
 
Ấn Hoàng hậu chi bảo, làm từ bạc mạ vàng, niên hiệu Bảo Đại thứ 9, 1934. Ấn được vua Bảo Đại cho đúc để ban cho Hoàng hậu Nam Phương nhân lễ cưới.
 
Ấn Hoàng thái tử bảo, đúc ngày 17 tháng 1, niên hiệu Bảo Đại thứ 14, 1939. Trong lễ phong, Hoàng thái tử Bảo Long (3 tuổi) được vua ban tặng ấn này để sử dụng với vị trí, vai trò của mình.
 
Ngoài kim bảo và ngọc tỷ, vật biểu trưng quyền lực của các hoàng đế triều Nguyễn còn có bảo kiếm. Đáng chú ý nhất là thanh An dân bảo kiếm niên hiệu Khải Định có chuôi vàng nạm đá quý, vỏ đồi mồi bọc vàng. 

 
Các thanh kiếm còn lại có chuôi ngọc bọc vàng hoặc chuôi ngà, vỏ đồi mồi bọc vàng hoặc bọc bạc... 

 
Mũ miện của các vua triều Nguyễn hầu hết bị mục nên đã được phục dựng. Đây là mũ bình thiên được vua đội vào dịp tế Trời - Đất hàng năm ở đàn Nam Giao để cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thiên hạ thái bình. Gọi là mũ bình thiên vì đỉnh mũ là một mặt phẳng hình chữ nhật, trước và sau mũ mỗi phía kết 12 tua hạt ngọc lẫn hạt vàng, tượng trưng cho 12 tháng. Ngoài ra, mỗi bông hoa, hình mặt trời bằng vàng gắn trang trí trên mũ đều được tô điểm thêm bằng cách cẩn ngọc hoặc đá quý.
 
Mũ thượng triều được nhà vua sử dụng mỗi khi thiết triều, giải quyết các vấn đề lớn của quốc gia, thực hiện các nghi lễ khánh tiết của nhà nước, hoặc yết kiến sứ giả các nước bang giao, thực hiện các nghi lễ tế tôn miếu, tổ tông… Bảo vật được chế tác từ vàng, đá quý, san hô, kim sa. 
 
Kim sách là một loại thư tịch cổ đặc biệt, dùng để ghi lại sắc mệnh, chiếu dụ vua ban về các việc chính sự, lễ nghi triều đình. Kim sách Đế hệ thi được đúc bằng vàng vào tháng Giêng, niên hiệu Minh Mệnh thứ 4, 1823. 
 
Sách chép 20 chữ bộ Nhật và bài ngự chế Đế hệ thi do hoàng đế Minh Mệnh ban năm 1823, dùng tới 13 tờ vàng. Với bài ngự chế này, vua Minh Mệnh mong muốn thế hệ sau truyền nối ngôi vua tới 20 đời, được 500 năm, nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chữ Vĩnh, tức đời thứ 5, do 11 vua nối tiếp thuộc cả chi khác hoặc thế hệ trước. 
 
Hốt ngọc là vật biểu trưng quyền lực của nhà vua, cầm trên tay khi thiết triều. 
Việt Hùng - Minh Đức (zing)
(Theo Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Già làng Đônh (bìa phải) giới thiệu về chiếc nỏ của người Bahnar. Ảnh: R.H

Điểm tựa Kon Brung

(GLO)- Không chỉ tâm huyết với công tác hòa giải, già làng Đônh (SN 1960; làng Kon Brung, xã Ayun, huyện Mang Yang) còn rất tâm huyết với việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Với bà con, ông là điểm tựa của làng Kon Brung.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Mừng lúa mới trên cao nguyên

Mừng lúa mới trên cao nguyên

(GLO)- Sau khi thu hoạch mùa vụ và đưa lúa về kho, đồng bào Jrai náo nức với lễ mừng lúa mới. Nghi lễ nông nghiệp cổ truyền độc đáo này đã được bà con duy trì từ bao đời nay.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.