Bảo vệ rừng thiêng và ước mơ giản dị của trưởng bản

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
 “Rừng ơi! Ta đã về đây, mang sức của đôi tay, lao động khó khăn không quản ngại. Rừng ơi! Trong tiếng ca hôm nay, vang lên cuộc đời sáng tươi trong tương lai!”. Với những người dân ở các buôn, bản, thôn, làng trên khắp đất nước Việt Nam có cuộc sống gắn bó với những cánh rừng thì ca từ bài hát “Bài ca người thợ rừng” này của nhạc sĩ Phạm Tuyên thật gần gũi. Bởi với họ rừng không chỉ là cây cối, muông thú mà còn là không gian thực hành văn hóa, tín ngưỡng, tinh thần và sinh kế. Vì lẽ đó, bảo vệ được rừng cũng luôn là nỗi niềm đau đáu…
 
Luật Lâm nghiệp năm 2017 có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, lần đầu tiên đã công nhận cộng đồng dân cư là 1 trong 7 chủ rừng
Cũng như nhiều nơi trên thế giới, Việt Nam có rất nhiều khu rừng truyền thống. Loại hình rừng này hiện bao gồm: rừng tín ngưỡng (còn gọi là rừng thiêng), rừng nghĩa địa (rừng ma), rừng bảo vệ nguồn nước, chắn gió, chắn sóng, chắn cát, rừng khai thác chung, rừng danh nhân, rừng bảo vệ loài động thực vật đặc trưng của địa phương, rừng sản xuất truyền thống được phục hồi sau nương rẫy trong luân kỳ du canh…
Các khu rừng này được cộng đồng tự nguyện quản lý, bảo vệ và khai thác sử dụng trên nền kiến thức, văn hóa và luật tục truyền thống một cách bền vững. Có thể nói, phương thức quản trị rừng truyền thống này được thực hành và gìn giữ qua nhiều thế hệ trong cộng đồng, đóng góp rất lớn trong việc bảo tồn sự toàn vẹn của hệ sinh thái rừng và đóng góp cho mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học. 
Ở những cánh rừng nơi tôi sinh sống…
Tuy nhiên, trong quá trình rừng được bảo vệ bởi vòng tay cộng đồng cũng có nhiều nỗi trăn trở song hành. Bằng câu chuyện chứa nhiều hoài niệm và nỗi niềm, trưởng bản Quang Văn Đồng ở Bản Hốc, xã Diễn Lam, huyện Quỳ Châu, Nghệ An kể về cánh rừng ở nơi mình sinh sống. Rằng, cánh rừng đó đã được các đời từ tổ tiên, ông cha truyền miệng cho con cháu là phải bảo vệ như con ngươi của mắt mình. Theo lời ông cha, các lớp con cháu hậu sinh của Bản Hóc đã cùng nhau xây dựng hương ước  bảo vệ rừng.
“Hương ước của bản chúng tôi có các điều cấm, đó là cấm đốt rừng làm nương rẫy, cấm vào rừng đặt bẫy, săn bắt động vật rừng, cấm chặt phá, buôn bán gỗ rừng, sản phẩm rừng. Người dân bản có thể lấy sản phẩm từ rừng về làm thực phẩm phục vụ đời sống hàng ngày nhưng tuyệt đối không mua bán. Nguồn thu từ mật ong và các loại hạt do rừng mang lại là rất lớn nên người dân chúng tôi rất có ý thức bảo vệ rừng để không bị mất nguồn sinh kế” - Trưởng bản Quang Văn Đồng cho biết.
Câu chuyện của anh Quang Văn Sơn là một ví dụ. Khi có nhu cầu dựng nhà sau khi ra ở riêng, anh Quang Văn Sơn phải viết đơn trình bày với Ban quản lý bản. Sau khi được bản thông qua, gia đình anh Sơn mới được phép vào rừng chặt gỗ. Trong thời gian chặt hạ cũng như đưa gỗ về dựng nhà, các thành viên trong Ban quản lý bản Hốc thường xuyên giám sát chặt chẽ để tránh người dân lợi dụng việc làm nhà khai thác gỗ về bán.
Được biết, ở bản Hốc, mỗi tuần trưởng bản cắt cử ra 5 hộ đi giám sát rừng, cứ thế luân phiên trong bản. Hàng tháng, luôn có cuộc họp bản trao đổi và tuyên truyền về vấn đề bảo vệ rừng cho người dân. “Chúng tôi yêu cánh rừng của mình là vậy, thế nên khi nhà nước có chính sách giao đất rừng cho dân, người dân Bản Hốc chúng tôi đã phản đối vì chúng tôi nghĩ rừng là sản phẩm của chung và không thể nào rừng có thể do ai độc chiếm để toàn quyền sử dụng và khai thác. Vì thế, chúng tôi mong muốn Nhà nước tạo điều kiện để cộng đồng người dân có thể chung tay giữ rừng và bảo vệ được những cánh rừng cộng đồng như ngàn đời nay vẫn vậy” - Trưởng bản Quang Văn Đồng bày tỏ. 
 
Ông Quang Văn Đông - Trưởng bản Hốc bên cánh rừng cấm
Mang những tâm tư đến từ hai cánh rừng là rừng thiêng và rừng cộng đồng (với tổng diện tích là 335.16 hecta) của bản Chu Lìn, Hồ Thầu, Tam Đường, Lai Châu, ông Phan A Diu trưởng bản cho biết, cánh rừng thiêng được tổ tiên ông cha giao lại với lời dặn một năm chỉ mở cửa rừng một ngày vào ngày 1/3 âm lịch hàng năm và trước khi mở cửa rừng phải làm lễ cúng rừng trong đó mỗi hộ góp con gà, hũ rượu. “Trong rừng thiêng có rất nhiều sản phẩm quý như nấm, mật ong, mây, nhưng nhớ lời dạy của tổ tiên, người dân không bao giờ dám tự động khai thác”, ông Phan A Diu nói.
Còn với cánh rừng cộng đồng, để bảo vệ rừng bản Chu Lìn thành lập tổ chuyên trách bảo vệ rừng mỗi hộ cử một thành viên tham gia. Vào mùa khô từ tháng 12 năm nay đến tháng Tư năm sau là thời điểm dễ phát sinh cháy rừng, tổ cắt cử người đi tuần tra hàng ngày. Cánh rừng cộng đồng cũng có nhiều sản vật rừng quý mà người dân được trực tiếp hưởng lợi theo quy ước cộng đồng nên rất hăng hái bảo vệ rừng.
Ông Phan A Diu cho biết: “Nhờ có rừng mà đời sống người dân bản được cải thiện hơn rất nhiều, song hiện nay số lượng dân bản ngày càng đông (tại bản có 128 hộ sinh sống với 685 nhân khẩu) trong khi diện tích định cư thì không đủ dẫn tới tình trạng có một số hộ lấn chiếm đất rừng để dựng nhà ở. Việc chưa có cơ sở để tự quản lý và bảo vệ rừng nên cộng đồng bản không có cách nào để ngăn chặn tình trạng này. Chính vì thế bản chúng tôi đã có kiến nghị lên các cấp huyện, tỉnh mở rộng, quy hoạch thêm diện tích để người dân có chỗ ở nhằm hạn chế tình trạng lấn chiếm rừng để xây nhà ở”. 
Để niềm tin đứng vững 
Từ những lời nói tâm huyết của hai trưởng bản có thể thấy nguyện vọng giữ rừng và khả năng bảo vệ rừng của người dân là có thật. Nhưng hiện nay có một thực tế là tại nhiều địa phương, các cơ quan quản lý vẫn còn những định kiến hoặc ngần ngại hoặc không ủng hộ giao đất - giao rừng cho cộng đồng vì thiếu đi niềm tin, hoặc lo ngại rằng, sau khi giao rừng sẽ mất. 
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, năm 2018 Việt Nam có 1.145.601ha rừng do cộng đồng dân cư tham gia quản lý (chiếm gần 8%), trong đó rừng tự nhiên là 1.048.765ha, rừng trồng 96.836ha. Nhưng chỉ có 524.477ha rừng đã có quyết định giao cho trên 10.000 cộng đồng, điều đó cho thấy diện tích rừng mà cộng đồng được thực sự “làm chủ” là còn khá ít so với diện tích họ đang quản lý, càng ít hơn nhiều so với diện tích của các chủ rừng khác.
Việc cộng đồng tham gia quản lý rừng nhưng không được giao quyền làm chủ, kể cả ở những khu rừng được quản lý theo truyền thống, luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số đang gây khó khăn cho tổ chức quản lý, phát triển, sử dụng và phục hồi rừng của cộng đồng địa phương, đồng thời là nguy cơ gây mất, suy thoái rừng.
“Việc cộng đồng tham gia quản lý rừng nhưng không được giao quyền làm chủ, kể cả ở những khu rừng quản lý theo truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số đang gây khó khăn cho tổ chức quản lý, phát triển và phục hồi rừng của cộng đồng địa phương. Đồng thời là nguy cơ gây mất rừng và suy thoái rừng” - ông Nguyễn Việt Dũng, Phó Giám đốc Trung tâm Con người và Thiên nhiên bày tỏ lo ngại.
Để giải quyết vấn đề trên, Luật Lâm nghiệp 2017 có hiệu lực từ ngày 1/1/2019, lần đầu tiên đã công nhận cộng đồng dân cư là một trong 7 chủ rừng. Đây là bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy quản lý rừng cộng đồng, hướng tới bảo vệ bền vững các khu rừng tự nhiên và góp phần cải thiện sinh kế cộng đồng. 
Tuy nhiên, trong bối cảnh vẫn còn những định kiến về “giao đất, giao rừng,” Luật Lâm nghiệp liệu có giúp cộng đồng trở thành những người chủ rừng thực sự, khi rừng tự nhiên vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước? Nhà nước cần làm gì để đảm bảo rằng quản lý rừng cộng đồng được thực hiện một cách hệ thống, chuyên nghiệp? Nhà nước cần làm gì để đảm bảo rằng quản lý rừng cộng đồng được thực hiện một cách hệ thống, chuyên nghiệp? Đó là những câu hỏi đặt ra cần sớm có lời giải đáp. 
Đừng để công sức giữ rừng của người dân mất trắng
Theo đánh giá của giới chuyên gia nghiên cứu về rừng, nếu chiếu theo quy định, “rừng tự nhiên” là tài sản công, Nhà nước đại diện chủ sở hữu thì công sức của người dân được giao rừng gần như mất trắng mà trường hợp rừng cộng đồng Vi Chring ở xã Hiếu (Kon Tum) là một ví dụ. Năm 2008, cộng đồng thôn được nhận 808,8 hécta rừng sản xuất là rừng tự nhiên với mục tiêu thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ, làm giàu rừng, phát triển lâm sản ngoài gỗ và sử dụng rừng bền vững.
Tuy nhiên, tuyên bố “đóng cửa rừng tự nhiên” của Chính phủ từ năm 2010 vô hình chung đã khóa chặt cơ hội được hưởng lợi của cộng đồng này khi không cơ quan nào “dám” phê duyệt cho họ khai thác dù là theo thiết kế bền vững. Thậm chí, rất nhiều các hộ gia đình được giao rừng tự nhiên đều muốn chặt rừng để thành rừng sản xuất, rừng trồng bởi đơn giản, với rừng trồng, họ được thừa nhận quyền sở hữu đối với rừng.
Hồng Minh (PLVN)

Có thể bạn quan tâm

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null