Ai về thương với mùa don

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Don vốn chẳng có mùa nhưng chớm hè là lúc những con sông ở Quảng Ngãi lại tấp nập người cào don. Và don, như một đặc sản xứ này, chẳng nơi nào có được.
 

Thương nhớ mùa don

Chiều đầu hạ, trên những miệt sông quê Quảng Ngãi thấp thoáng những bóng người như chấm nhỏ trên mặt sông nặng phù sa, nơi con nước cuối mùa mưa thượng nguồn đổ xuống đồng bằng nhỏ hẹp ven biển Quảng Ngãi và đổ ra cửa biển. Đàn ông, đàn bà quanh những dòng sông Vệ, sông Trà Khúc lại í ới gọi nhau ra lặn ngụp cùng con nước để cào don. Điểm tập trung sinh sống ưa thích của don là môi trường đất cát. Thường vào mùa khô hạn, khoảng tháng 4 đến tháng 5, người dân xung quanh hai con sông mới vào mùa cào don. Nhưng, có khi vào tháng 7 don cũng xuất hiện nhiều.

Cào don có lẽ cũng là một nghề đặc biệt ở ven sông Quảng Ngãi. Người ở sông Trà hay sông Vệ vẫn cào don đều đặn cả ngày nắng lẫn ngày mưa, bởi vì don vốn không mùa. Nhưng, những tháng nắng hung nắng dữ thì bắt don mới dễ và con don mới dâng hết độ ngon. Dù được đánh bắt ở nhiều nơi nhưng hương vị don ngon nhất phải được đánh bắt trên sông Trà và sông Vệ Quảng Ngãi. Chẳng thế mà dù đi bất cứ đâu, vị don vẫn không thể lẫn được bởi cái chất đặc trưng của don xứ này.


 

Trên dòng sông Trà, sông Vệ, nhiều người mưu sinh bằng nghề cào don.
Trên dòng sông Trà, sông Vệ, nhiều người mưu sinh bằng nghề cào don.



Don là loài nhuyễn thể có họ hàng với hến. Con lớn nhất chỉ bằng móng tay út. Vỏ được tạo bởi 2 mảnh mỏng. Thịt don màu vàng nhạt, có tua nhỏ viền xung quanh. Don sống vùng nước lợ và vùi trong tầng cát đáy sông. Hai bên dòng sông Trà, sông Vệ, có những làng sống nhờ nghề cào don. Như xã Nghĩa Phú (huyện Tư Nghĩa) có gần 500 hộ dân sống nhờ vào dòng sông Trà Khúc, trong đó có gần 100 hộ dân sống bằng nghề cào don.

Và nghề cào don cũng giúp nhiều người không đi cào có thu nhập ổn định, đó là nghề làm cào don. Như ông Lê Ca (thôn Hiền Lương, xã Nghĩa Hà, TP Quảng Ngãi), người chuyên đan cào don cung cấp cho hàng trăm hộ dân làm nghề. Ông Lê Ca cho biết, chiếc nhủi gắn với nghề cào don đã lâu.Để làm ra những chiếc cào như thế cũng khá kỳ công, phải chọn loại tre già ngâm nước, phơi nắng cho tre chắc lại, rồi mới vót, đan khá cầu kỳ.Mỗi chiếc cào có giá gần 300 ngàn và đan trong vòng từ 4 ngày tới 1 tuần mới xong. Qua bàn tay khéo léo của người dân sông nước, chiếc nhủi trở nên rất hữu dụng và những con don nằm sâu dưới đáy sông chẳng mấy chốc được bắt lên.


 

Ông Lê Ca - người đan cào don cung cấp cho hàng trăm hộ dân làm nghề.
Ông Lê Ca - người đan cào don cung cấp cho hàng trăm hộ dân làm nghề.


Lặn ngụp bên triền nước

Trên mặt sông Vệ đẫm ánh mặt trời, những người cào don với khuôn mặt khắc khổ, da đen sạm, đội chiếc nón lá rộng vành để che bớt cái nắng.Họ là những người đàn ông, đàn bà cùng những cái thau nhựa đựng don được buộc dây ở thắt lưng để đựng thành quả. Đôi cánh tay đẩy những chiếc nhủi chìm dưới mặt nước, họ rướn sức đẩy về phía trước, được vài bước thì đứng lại, nhấc cào lên, đổ don và lổn nhổn những tạp chất vào thau. Những thân người ướt đẫm vì nước sông, vì mồ hôi ròng ròng đổ xuống.Nước sông lờ lợ như bởi hòa lẫn mồ hôi của những người làm nghề sông nước mưu sinh những chớm hè này.

Cào don là công việc nặng nhọc và cũng phần nào nguy hiểm, bởi bập bềnh giữa sóng nước, ngâm mình trong nước giữa cái nắng chói chang trên mặt sông không phải công việc của những người yếu sức. Quảng Ngãi có 3 con sông lớn là Trà Bồng, Trà Khúc và sông Vệ nhưng chỉ những cư dân sống ven sông Trà Khúc và sông Vệ làm nghề cào don bởi con sông khi xuôi dần về cửa biển nước sẽ lặng hơn, không có đá ghềnh hay dòng xiết. Việc cào don không vì thế mà nhẹ ngàng, ngược lại rất phức tạp và vất vả. Bà Thủy, người sống bên bờ sông Vệ hơn 15 năm qua chỉ xuống những vùng nước lặng gần bờ bảo, những người đã quen với nghề cào don, bằng kinh nghiệm có thể biết vị trí don tụ tập mà khai thác. Để cào don thành thạo, có người chỉ học nghề vài ngày nhưng cũng có người có khi đến 2 tháng. Và tất nhiên, nhiều người cũng bỏ nghề ngay từ mẻ cào đầu tiên vì không đủ kiên nhẫn và sức khỏe.


 

Don Quảng Ngãi.
Don Quảng Ngãi.


Vật dụng không thể thiếu của người cào don là cái nhủi, được làm từ tre, có chiều ngang hơn nửa mét, chiều dài khoảng 1m, gồm các thanh tre được vót nhọn và kết thưa lại với nhau từ 10-12 thanh, gắn cố định vào tay cầm. Dụng cụ cào don còn có chiếc rổ, một ghe máy hoặc ghe thường và cái bao tải nhỏ để đựng thành quả lao động.

Cứ thế, tờ mờ sáng, khi ánh bình minh vừa ló trên miền biển xa xa, người ven sông lại xách nhủi đi cào. Họ cào từ sớm tinh mơ đến khi bóng nắng xiên tai rừng rực xuống mặt nước thì đi về. Nhưng, cũng có người mưu sinh bằng nghề cào don, họ cào từ sáng tới trưa mới nghỉ, mang thành quả ra chợ bán hoặc đổ mối cho những tiểu thương. Sau đó, nửa chiều lại tiếp tục cào cho đến tối mịt.Thu nhập mỗi ngày vì thế cũng khả dĩ khá hơn.

Xòe bàn tay đã nhợt nhạt vì nước nhưng vẫn hằn lên những vết sẹo, cùng bàn chân chai sạn vì dầm trong bùn sông liên tục, ông Phạm Văn Tài (làng An Mô, xã Đức Lợi, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi) chia sẻ, công việc của những người cào dắt, don tùy thuộc vào con nước. Nước lớn sẽ đi muộn hơn một chút, có khi đến hơn 1 giờ chiều mới kết thúc. Người cào don phải thuộc lòng con nước, thuộc lòng vùng sông, thuộc lòng cả đáy sông. Và tất nhiên, thương tích khi cào don cũng thường xuyên xuất hiện bởi dưới lòng sông đôi khi có đá sắc nhọn, những mảnh chai, thủy tinh theo sóng nước từ phía trên đổ về, hay mảnh kim loại... bởi người cào don đi chân trần, chân bám xuống đáy sông và việc bị thương tích là không tránh khỏi. Nhưng, đời gắn với nghiệp, họ dần quen với thương tích và coi đó là một phần của cuộc sống hằng ngày. Được hôm thời tiết thuận lợi hay vào mùa don sinh trưởng nhiều, những người cào don như ông Tài cũng thu hoạch được 20-30kg với giá bán 3.500-4.000 đồng/kg, thu được 150-200 nghìn đồng. Tuy vậy, vẫn có hôm vất vả cả buổi chỉ được hơn chục cân. Dừng tay quệt những giọt mồ hôi đọng trên trán, ông Tài bộc bạch rằng nghề cào don nếu may mắn có ngày thu được 200-300 nghìn đồng.


 

Công đoạn làm sạch don cũng nhiều vất vả.
Công đoạn làm sạch don cũng nhiều vất vả.


Công việc nặng nhọc nhưng bữa ăn trưa của họ chỉ là những chén cơm thô kèm vài miếng thịt kho, cá khô. Những năm qua, giá don tăng và đảm bảo nên nhiều người trong lúc rỗi việc cũng trang bị thêm nhủi để đi cào don cải thiện thu nhập. Don có giá, nghề cào don thu hút nhiều người làm hơn và don cũng ngày càng ít dần.

Don bây giờ thành đặc sản, dù không là cao lương, sơn hào hải vị, mà là món ngon đậm đà tình quê. Món don được chế biến không cầu kỳ, khó nhất là làm sạch don cho hết đất cát lòng sông và đãi lấy ruột, rồi cứ thế thêm gia vị, hành tỏi và ăn với bánh tráng là có một bát don thanh ngọt. Món don như đặc tính của người đất Quảng, không cầu kỳ, không đắt đỏ, cái ngon tự nhiên đến từ vị ngọt thanh lạ của con don trên mảnh đất quê hương đã tạo nên một đặc sản, một niềm tự hào của ẩm thực Quảng Ngãi...

 

Don bây giờ thành đặc sản đậm đà tình quê.
Don bây giờ thành đặc sản đậm đà tình quê.


Những ngôi làng bên triền sông xứ Quảng, có những số gia đình khai thác don chuyên nghiệp. Họ cào, rồi thu mua don của những người cào xung quanh và đưa đi xa, vào TP Hồ Chí Minh, lên Tây Nguyên, ra phía Bắc. Nhiều gia đình có con đi học xa quê cũng nhờ con don trên sông này. Mỗi kg don thực phẩm có giá tới hơn 100 ngàn đồng. Những người quê Quảng Ngãi khi làm ăn, học hành nơi xa xứ bất chợt thấy quán cóc bên đường đề chữ “Don Quảng Ngãi” là nhớ quê da diết. Có quán chỉ đề một chữ trụi lủi “Don” nhưng người quê đều biết đó là sản phẩm quê nhà nơi sông Trà, sông Vệ. Vậy là lại xì xụp với chút quà quê hương nơi xứ khách xa xôi.
 

https://antg.cand.com.vn/Phong-su/ai-ve-thuong-voi-mua-don-i650637/

Theo MINH NGỌC (antg.cand)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

null