Vượng khí làng chài dưới chân đèo hoang

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Nghe kể, những vạn dân Xuân Hải đã có mặt dưới chân đèo Cù Mông (ranh giới 2 tỉnh Bình Định, Phú Yên) từ hàng trăm năm trước. Họ đến sống cộng sinh bên ghềnh đá hoang dại, ra biển kiếm ăn bằng những thuyền con và thúng chai rồi dần tạo dựng nên một làng biển giàu mạnh…
 Một góc làng thúng Xuân Hải dưới chân đèo Cù Mông
Một góc làng thúng Xuân Hải dưới chân đèo Cù Mông
Nghệ sĩ cưỡi sóng
Sau hàng trăm năm ẩn mình dưới chân đèo đá, đến bây giờ làng chài Xuân Hải (thôn 2, xã Xuân Hải, thị xã Sông Cầu, Phú Yên) mới được khách du lịch bốn phương khám phá ra. Một buổi chiều giữa tháng 5-2019, chúng tôi tìm về “mục sở thị” cái làng thúng chai đẹp nhất dải miền Trung này. Buổi chiều, nắng vàng vọt rọi xuống tự tình với sóng biển. Tiếng âm ba vang vọng, giữa một màu bình yên, no ấm. Từ đỉnh đá, làng chài Xuân Hải “lộ diện”, cảnh sắc đẹp ngỡ ngàng. Đó là một bức tranh sống động giữa cái hoang vu của đá, sóng và con người miệt biển. Ngư phủ Xuân Hải có lối sống tự do, phóng khoáng. Họ còn được ca tụng với cái mỹ danh nghệ sĩ cưỡi sóng. 
Trò chuyện với tôi, cựu lão ngư Hồ Văn Thìn (68 tuổi, làng biển Xuân Hải) nói: “Khách thập phương thấy làng chài này nhiều thúng chai bắt mắt, nên gọi nghệ sĩ hay nghệ thuật gì đó. Cả tài sản của Xuân Hải chỉ có mỗi thúng chai và những ngư dân chuyên ăn đêm. Ngoài ra, bãi biển ở làng chài này còn sở hữu một loại cát cực kỳ hiếm, đó là cát vàng hạt to, không bị dính bẩn khi nằm lên đó. Thế nên, ngày trước lớp trẻ cứ yêu nhau là hay ra bãi cát dựng lều, tỏ tình…”.
Chứng kiến khoảnh khắc ngư phủ làng chài Xuân Hải ra khơi mưu sinh, phần nào cảm phục trước sự tinh tế, khéo léo của con người nơi cửa bể. Có lúc, cả chục ngư phủ ngồi trên chiếc thúng chai tưởng chỉ nhỏ như vỏ đậu, quay quanh con sóng hung dữ đang xô vào ghềnh đá. Một du khách đang đi “bụi” nói với tôi rằng, cuộc mưu sinh của cư dân làng chài này thiên về nghệ thuật hơn là cái hiện thực cơm áo hàng ngày.
Còn ông Nguyễn Thu (60 tuổi) khoe rằng, đã từng đi nhiều nước trên thế giới như Ý, Áo, Đức, Pháp… nhưng chưa có nơi nào đáng sống như làng chài Xuân Hải - nơi “chôn nhau cắt rốn” của ông. “Dù đi đâu tôi vẫn cứ muốn quay về đây để buổi chiều nào cũng được nghe tiếng sóng vỗ vào gành đá. Được nghe tiếng dân làng rôm rả kéo thúng chai buông khơi, rồi trẻ con nô đùa bên sóng, chúng tôi rất may mắn sở hữu một món quà vô giá mà tạo hóa ban cho, không có tiền bạc nào có thể đánh đổi được cả”, ông Thu tự hào.
Làng thúng “ăn” đêm
Theo lão ngư Hồ Thìn, làng thúng chai Xuân Hải hiện có gần 1.000 hộ dân, với trên 5.000 nhân khẩu. Cả làng có khoảng 500 thúng chai, đánh bắt ở những vùng biển từ 10 hải lý trở vào bờ. Cư dân vạn chài Xuân Hải thường lợi dụng đêm đen để ra biển dàn trận, tổ chức cuộc “săn”. “Hàng ngày, cứ 17 giờ 30 phút các tàu thuyền bắt đầu ra khơi, đến 6 giờ sáng mới trở về bờ để bán hải sản. Trước đây, đa số dân làng ra biển kiếm ăn bằng thúng chai. Vài năm trở lại đây, nhiều người giàu có, cũng đã đóng được tàu lớn để ra biển xa, bắt cá lớn”, ông Thìn chia sẻ.
Đang khéo léo gỡ những mảng hàu và vỏ ốc bám trên tấm lưới, ngư phủ Trần Hiến (47 tuổi, làng chài Xuân Hải) vui vẻ nói: “Nghề thúng chai cũng lai rai thôi chú. Có đêm trúng thì được vài ba triệu, vào chính vụ cá trích có mẻ kiếm trên chục triệu. Còn bình quân thì 500.000 - 700.000 đồng/mỗi đêm/2 canh đánh bắt.” Theo anh Hiến, thúng chai này làm được rất nhiều nghề, như lưới trích (nghề chính, chuyên bắt cá trích), lưới tôm, bóng mực, lưới ba màng, lưới cao (cá sòng, cá ngân), lưới một (cá phèn, cá hố, cá liệt), lưới chuồn (bắt cá chuồn bay)… Mùa cá trích kéo dài từ tháng 9 đến tháng giêng năm sau (tháng 1), vạn dân Xuân Hải gọi là “mùa no ấm”. “Vài năm trở lại đây, xuất hiện thêm một nghề mới, đó là nghề săn loài cá chuồn bay. Nghề này là nghề hót, dễ hốt bạc lắm!”, anh Hiến nói.
Bà Tô Thị Chua (54 tuổi), khẳng định: “Hiện tại, nghề thúng chai vẫn đang là số 1 ở Xuân Hải. Nhiều chủ thúng chai hành nghề trúng mánh, không những xây được nhà cao cửa rộng mà còn cho con ăn học đến đại học nữa. Ngày xưa bố mẹ chúng chỉ có học hết lớp 3 là cố lắm! Giờ con em trong làng này đều được đi học hết, đứa thấp nhất cũng hết lớp 9 hoặc 12”.
Có thời “cắn cỏ” nuôi bộ đội
Bà Chua kể rằng, trước kia làng biển Xuân Hải từng là vùng đất cách mạng. Vì thế, những năm trước giải phóng, chiến trận ác liệt, dân làng phải sống cảnh trốn chạy. “Hồi ấy, dân chúng tôi mỗi khi qua bên chợ Gò Duối (nay xã Xuân Lộc, thị xã Sông Cầu) bán than (đốt từ cây rừng) mua gạo thì thường bị lính ngụy bắt lại, lục soát. Chúng dùng khèo (cây rừng) vót nhọn, chọc vào bị, thấy có gạo là quy cho tội tiếp tế cho cộng sản nên bắt đổ ngay. Thời ấy, đói thế mà vẫn quyết che chở, nuôi bộ đội giải phóng”, bà Chua nói.
Năm 1973, bà Chua mới chỉ 8 tuổi, có bố là bộ đội đang ẩn náu ở những ngọn núi phía sau làng chài. Mỗi ngày, mẹ Chua phải đùm cơm trong bị, giả làm người đi lấy than để đưa cơm cho chồng. Có hôm, mẹ lâm bệnh dặn Chua (lúc ấy mới 10 tuổi) vắt cơm bỏ vào bị, lần đường lên núi đưa cho bố và đồng đội ăn. Lên nửa dốc núi, cô bé Chua bị lính ngụy phát hiện, bắt lại để lục soát. Tay chân cô bé nhỏ nhắn run rẩy, sắp đổ quỵ xuống đất. May thay, vừa lúc có bà cô hàng xóm quen với tay lính ra can lại, bảo: “Con cháu nó tội lắm! Đưa bị lên rừng cho ba nó lượm than về đổi gạo ăn chứ không có gì đâu, đừng lục soát nó!” Nhờ vậy mà cô bé Chua thoát chốt địch bình an vô sự.
Đó là một buổi chiều mùa hạ năm 1973, lúc đó địch và ta còn đang vây ráp, truy đuổi nhau ác liệt. Dân lành là những người phải cam chịu đói khát lầm than, khi cuộc chiến nổ ra. “Khi mang cơm lên đến chỗ ẩn náu của các chú bộ đội. Lúc ấy, tui tận thấy có 4 chú đang trên 4 cây như cái đòn gánh, cứ quật qua, quật lại. Tui hỏi: “Các chú đang làm gì vậy”.  Có chú trả lời: “Khổ lắm cháu ơi, do dưới hang tụi chú đang nấu canh nên phải quật cho tan khói, chứ để địch phát hiện có khói, chúng ném bom là chết hết”.
Ông Thìn kể thêm: “Còn ba tôi là ông Hồ Nhào những năm 1966 đến 1977, đã lấy thùng phuy, đào hầm dưới bếp để nuôi  nhiều bộ đội trong nhà. Trong khi đó, mẹ tôi là bà Đăng Thị Phết, năm 1966 theo đội cảm tử quân vào thị xã Sông Cầu để cướp chính quyền. Nhưng sau đó bà bị địch bắn chết… Kể ra vậy, để thấy dân làng chài Xuân Hải dù nghèo nhưng luôn sòng phẳng với quê hương đất nước. Ăn rau, cắn cỏ cũng quyết bảo vệ quê hương chứ không chịu theo địch…”.
Hôm nay, nhìn quê hương của mình đang thay da đổi thịt, ông Thìn phấn khởi hẳn. Tuy nhiên, trong con mắt của bô lão này vẫn còn bộn bề lo âu. Ông bộc bạch: “Từ khi Nhà nước có chủ trương làm Quốc lộ 1D nối từ TP Quy Nhơn (Bình Định) đi thị xã Sông Cầu đã làm bật dậy làng chài Xuân Hải. Tuy nhiên bây giờ vẫn còn nhiều mối lo lắm. Dân làng còn nghèo, dẫu có lợi thế về du lịch nhưng chưa khai thác được nhiều vì không ai quan tâm, thiếu đầu tư”.
10 năm trở lại đây, biển gần bờ nạn giã cào bay hoành hành. Chúng (giặc giã cào-PV) tàn sát cá, cua từ bé đến lớn, kéo phá hết ngư lưới cụ của vạn dân Xuân Hải, tổn thất hàng chục triệu đồng. Mong Trung ương, địa phương sớm có giải pháp loại bỏ ngay giặc giã này. “Còn một mối lo khác, làng chài chúng tôi bây giờ đang đứng trước vấn nạn nhức nhối, đó là rác thải. Rác thải bủa vây, đang dần đầu độc cả bãi biển rồi…”, ông Thìn lo lắng nói.
NGỌC OAI (sggp)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Những người mẹ đặc biệt

Những người mẹ đặc biệt

Lặng lẽ tồn tại suốt gần 60 năm qua, cô nhi viện Phú Hòa (xã Tịnh Ấn Tây, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) được nhiều người gọi với cái tên “ngôi nhà đặc biệt”, bởi nơi đây có những phụ nữ hy sinh cả đời để trở thành mẹ của hàng trăm đứa trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi...

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Cán bộ Công an phường Phù Đổng (TP. Pleiku) hướng dẫn nhân viên Khách sạn Khánh Linh đăng ký lưu trú qua phần mềm dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: T.T

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ 1: Khi hệ thống chính trị cùng vào cuộc

(GLO)- Ngày 6-1-2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06).

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…