Vườn hoang

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Nhà ông Phệnh cách nhà nội tôi một cái hàng rào thưa. Mỗi sáng thức dậy, đứng bên hiên nhìn qua, tôi đã thấy ông lúi húi làm vườn, cái ấm nhôm cáu đen đựng nước chè tươi để gần đó. Nghỉ tay, ông rót ra một ly uống ừng ực rồi lại cắm mặt làm cho đến khi mặt trời đứng bóng.

Ông Phệnh sống một mình, không vợ không con nhưng người xóm tôi vẫn nói vui rằng ông có một đứa con. "Đứa con" này là Vâu - con chó bị người ta vất ngoài chợ, tình cờ thấy ông đi qua nó lẵng nhẵng bám theo về nhà. Con Vâu ở với ông Phệnh hơn mười năm nhưng cái chứng ghẻ lở vẫn đeo đẳng. Nó ghẻ đến nỗi lông trên lưng trụi lủi, thay vào đó lớp da cóc cáy. Con Vâu xấu xí là vậy nhưng ông Phệnh cưng như trứng mỏng.

Ông Phệnh lầm lì, ít nói, cả ngày quần quật ngoài vườn, nghỉ tay là lại ôm con Vâu mà hôn hít. Trong xóm, người quý ông Phệnh nhất phải kể đến bà tôi. Bà thương ông cái nết hiền lành chăm chỉ. Nhắc tới ông Phệnh, bà có một câu muôn thuở: "Cái thằng hiền lành giỏi giang, đàn bà con gái làng này đứa nào có duyên gặp nó thì sướng một đời".

Lần nào nghe câu đó ông Phệnh cũng cười, mặt cặm xuống chân, vẻ ngại ngần. Ông biết mình xấu, gương mặt khó coi với một bên má lõm vào như cái hốc, khiến con mắt cũng bị kéo xuống để lộ con ngươi nhờ ố, lúc nào cũng như đang trợn trừng người khác. Một sự tàn nhẫn của số phận! Đã vậy, thân hình ông lại đen như củ súng, quanh năm chỉ hai bộ đồ vải thô bạc phếch, giặt xong phơi lên, có khi chưa khô đã lấy xuống mặc tiếp.

Bà tôi thấy ông Phệnh thui thủi một mình thì thương. Trong xóm có cô nào quá lứa chưa chồng, bà cũng mon men ướm hỏi cho ông. Xóm trên có cô Liếng, cô Dành; xóm dưới có cô Nhu, cô Thỏa. Ai cũng xấp xỉ bốn mươi, lại không xinh nhưng nghe bà tôi nhắc đến ông Phệnh, cô nào cô nấy ngúng nguẩy :"Ai mà ưng cái người kỳ dị đó, con ở vậy còn sướng hơn!". Bà tôi riết rồi cũng hết hy vọng kiếm cho ông Phệnh một cô vợ. Ông như hiểu, chỉ cười buồn khi nghe tin bà lại đánh tiếng nhắm nhe mối khác.

Minh họa: Hoàng Đặng

Minh họa: Hoàng Đặng

Bà nấu gì ngon cũng múc một tô biểu tôi bưng qua cho ông Phệnh, khi tô canh khoai mỡ, lúc lại chén chè đậu đỏ. Có vài cái bánh bột mì chiên, bà cũng biểu tôi đem qua. Tôi thích được bà sai qua ông Phệnh để ngồi đong đưa trên cái võng coi ông nựng con Vâu. Ông gọi nó bằng con, xưng ba, cứ như cha con ruột.

… Ánh nắng xiên khoai đến tận hiên, ông tôi qua xóm bên đánh cờ vẫn chưa về. Tôi ngồi trên chiếc giường tre gãy vạt nhổ tóc sâu cho bà, vừa nhổ vừa trông chừng đàn gà mổ nong lúa trong sân. Bên kia, nhà ông Phệnh im ắng, ông đi đâu từ sớm. Bỗng cánh cổng tre ken két mở ra, ông Phệnh lao vào. Trên tay ông, một con vật lông xám rũ xuống, không rõ là con gì. Tôi chạy đến bên hàng rào nhón chân nhìn cho rõ. Thấy tôi, ông kêu lên: "Mau qua đây bác nhờ chút!".

Tôi qua đến nơi đã thấy con vật kia nằm thõng thượt trên cái sân gạch. Hóa ra đó là một con khỉ, hai chân sau bê bết máu, mắt nhắm nghiền, từ miệng nó phát ra tiếng ché ché yếu ớt. "Coi nhà có bông băng, đem qua cho bác!".

Tôi chạy về, đem qua cuộn băng còn sót lại của bà. Ông Phệnh lau rửa vết thương cho con khỉ. Lúc này tôi mới để ý sau lưng ông lấp ló một con khỉ nữa. "Con này bị sập bẫy heo rừng, còn con kia là bạn nó theo về tới đây, đuổi cách gì cũng không đi" - ông giải thích. Băng bó cho con khỉ xong, ông để nó nằm lên tấm áo cũ lót bên trong cái mủng. Con khỉ bạn lúc này mới mon men lại gần, sờ vào con kia, mắt rơm rớm. "Giờ bác tính sao?" - tôi hỏi. "Để nó ở đây, chừng nào lành thì đem hai đứa nó về rừng chứ sao giờ".

Con khỉ bạn mới đó đã dạn dĩ, chạy quanh sân ngó nghiêng rồi lại gần cào vào tay ông Phệnh như muốn cảm ơn. Tôi đến gần, nó lùi lại cảnh giác, chạy nấp sau cái lu đựng nước mưa.

Từ lúc thấy ông Phệnh đem con khỉ về, con Vâu gầm gừ chạy quanh vườn đánh dấu lãnh thổ. Ông thấy vậy biểu nó lại, thầm thì câu gì đó. Lập tức nó lại gần con khỉ bị thương, khẽ liếm láp như bày tỏ tình cảm.

"Con Vâu từ nay được làm anh rồi. Còn hai con khỉ bác đặt tên là gì?" - tôi hỏi. Ông Phệnh cắm cúi cưa mấy tấm ván đóng cho hai con khỉ cái nhà, ngẩng lên chỉ: "Con này sập bẫy gần bụi dủ dẻ, đặt tên Dủ, con kia tên Dẻ cho tiện". Nói rồi ông cười hả hả.

Từ ngày có Dủ và Dẻ, nhà ông Phệnh lúc nào cũng vui như Tết. Tụi con nít trong xóm rảnh lại kéo tới nhà ông coi Dủ, Dẻ làm trò. Chừng hai tuần, chân con Dủ đã lành, nó bắt đầu leo trèo khắp vườn. Buổi chiều, thấy tôi qua nhà, ông Phệnh vẫy lại: "Mai bác cho hai đứa về rừng, chân con Dủ lành rồi". "Để tụi nó ở đây đi bác" - tôi nài nỉ. "Tội nghiệp, chỗ của tụi nó là rừng" - ông cười buồn.

Ông Phệnh sửa soạn cho Dủ, Dẻ lên đường, trước khi đi còn lột hai trái chuối chín cho ăn. Tôi đứng nhìn theo bóng ông xa dần. Sau lưng ông, con Dẻ chạy nhảy thoăn thoắt. Con Dủ chân đã lành nhưng ông vẫn cho nó ngồi trong cái mủng đội đầu. Bên hiên, con Vâu nằm dài, miệng rúc vào hai chân buồn thiu.

Chiều tắt nắng, ông Phệnh trở về, dáng vẻ lầm lũi đi thẳng đến cái nhà gỗ của Dủ, Dẻ đứng bịn rịn một lúc rồi khiêng nó ra để ở góc vườn. Ông đứng nhìn cái nhà thiệt lâu rồi buồn bã quay vào.

Từ ngày Dủ, Dẻ về rừng, con Vâu buồn xo, đứng bên này nghe tôi gọi nó chẳng thèm ngẩng lên. Chiều muộn, ông Phệnh vẫn còn cặm cụi lát lại mấy tấm đanh bên giếng. Tôi ngồi vuốt ve con Vâu, thấy đuôi nó bỗng ngúc ngoắc, bất thần nó lao ra cổng sủa inh ỏi. Tôi chưa kịp nhìn ra đã thấy con Dẻ vào đến hiên, sau lưng nó, con Dủ nhúc nhắc đi như ông cụ.

Nghe tiếng tôi kêu tên Dủ, Dẻ, ông Phệnh đóng tấm đanh cuối cùng vội ngẩng lên, đứng sững nhìn hai đứa nhảy chồm chồm mừng vui. Thả rơi cái bay xuống đất, ông lao vào sân, mắt ngấn nước nhưng vẫn làm bộ nạt vài câu lấy lệ: "Về rừng mà ở đi! Bu chi mà bu quá chừng!".

Dủ, Dẻ ở cùng ông Phệnh bao nhiêu năm, tôi không còn nhớ nữa. Chỉ nhớ, một buổi chiều bà tôi đi về, hớt hải vo gạo bắc nồi cháo rồi quày quả qua nhà ông Phệnh, tay cầm theo chai dầu Nhị Thiên Đường.

Ông Phệnh đột ngột ngã bệnh, nằm chừng một tuần thì qua đời. Ông đi nhẹ nhàng nhưng cũng khiến cả xóm tôi thương xót. Bà tôi qua nhà nấu cho tô cháo, ông tôi xách nước tưới mấy luống rau. Con Vâu không rời ông Phệnh nửa bước, nó ngồi chầu hẫu nhìn ông thiêm thiếp trên tấm phản. Như linh cảm, Dủ, Dẻ cũng thôi leo trèo phá phách, ngồi bên hiên ngơ ngác nhìn mọi người xao xác vào ra.

Ông Phệnh trút hơi thở cuối cùng. Trước khi đi, ông gượng dậy vẫy con Vâu lại gần, run run xoa cái lưng gầy của nó. Dủ, Dẻ thấy vậy cũng lao tới. Ông Phệnh đưa bàn tay về phía tụi nó nhưng không kịp nữa rồi. Ông gục xuống.

Cả xóm đưa ông Phệnh ra đồng vào một buổi chiều cuối đông lạnh ngắt. Vâu và Dủ, Dẻ cũng lẳng lặng theo đoàn người cho đến khi nắm đất cuối cùng lấp lại.

Ông bà tôi ngày ngày qua lại coi sóc căn nhà của ông Phệnh, đợi người thân ông về sẽ giao lại cho họ. Mỗi bữa nấu cơm, bà tôi nấu dư ra một ít cho con Vâu. Trong vườn có trái cây chín, bà lại cất dành đem qua nuôi Dủ, Dẻ.

… Năm ngày rồi, con Vâu bỏ ăn, nó ngồi nhìn chén cơm bằng đôi mắt buồn bã, người gầy rộc đi. Đến ngày thứ sáu, bà tôi vẫn kiên trì đem cơm qua dỗ dành nhưng chẳng thấy nó đâu. Bà chạy quanh xóm tìm nó, gặp ai cũng hỏi nhưng tuyệt nhiên không ai biết con Vâu đi đâu về đâu.

Bên hiên, ông tôi thôi đốt thuốc, chầm chậm đứng lên khoác áo ra ngõ đi về phía đồng trên. Bên nấm mộ ông Phệnh còn tươi mới, con Vâu nằm đó mắt nhắm nghiền, thân hình lạnh ngắt từ bao giờ.

Nó đã chết.

Ông tôi chôn con Vâu bên bụi duối. Chỗ này nhìn xuống là cánh đồng, cách không xa nấm mộ của ông Phệnh. Bà tôi mỗi ngày vẫn vén hàng rào qua nhà, đem cho Dủ, Dẻ trái chuối, chén cơm. Ông tôi nhìn hai đứa, yên lặng không nói gì, chỉ nghe tiếng ông thở dài thật khẽ.

Chiều đã sậm, những tia nắng cuối cùng trong ngày xiên qua vòm lá xuống sân, vẽ thành những vệt sáng lay động khi gió lướt qua. Bên vườn, tiếng Dủ, Dẻ bỗng ché ché liên hồi. Ông bà tôi chạy qua đã thấy Dủ, Dẻ trèo lên cánh cổng tre, đầu cúi rạp xuống như chào tạm biệt. Ông bà chưa hiểu chuyện gì, Dủ, Dẻ đã chạy về hướng đồi trọc, nơi ngày trước ông Phệnh phát hiện thấy hai đứa và đem về nhà. Tôi nhìn theo bóng Dủ, Dẻ lúc này chỉ còn là hai đốm xám nhỏ xíu cho đến khi chúng mất hút vào màu xanh cây cỏ.

Ông Phệnh không còn nữa, con Vâu đã theo ông, Dủ, Dẻ cũng trở về rừng. Căn nhà ông Phệnh, ông bà tôi vẫn qua lại coi sóc nhưng từ bao giờ, khu vườn đã trở thành vườn hoang. Lạnh lẽo. Hoang tàn.

Bà tôi có thói quen mỗi ngày vẫn ra hàng rào đứng ngó mông lung. Ông tôi chiều chiều lại ra ngõ nhìn về đồi trọc khẽ thở dài. Tiếng thở ấm áp, nhẹ tênh như những buổi chiều nhìn qua hàng rào thấy ông Phệnh dọn cơm ra sân gạch. Bên cái mâm nhôm móp méo, ba đứa xúm xít quanh ông như ba đứa con thơ. Vừa ăn, ông vừa đút con Vâu một miếng rồi quay qua bên kia chia thức ăn đều ra cho Dủ, Dẻ...

Tiếng bà tôi đến hôm nay vẫn nồng ấm khi nhắc tới "nhà bên đó": "Ờ, rồi cuối cùng thằng Phệnh cũng có một gia đình".

Truyện ngắn VŨ NGỌC GIAO

Có thể bạn quan tâm

Minh họa: HUYỀN TRANG

Bữa cơm ngoài đồng

(GLO)- Tôi sinh ra từ làng, lớn lên cùng cánh đồng mỗi năm 2 vụ chính. Thuở ấu thơ, tôi và cánh đồng cùng đi qua những mùa mưa nắng, cùng đằm vị mồ hôi chát mặn của cha mẹ và niềm vui lan tỏa của những bữa cơm ngoài đồng.

“Có nỗi nhớ không mang tên”

“Có nỗi nhớ không mang tên”

(GLO)- Chiếc xe khách lướt êm trên quốc lộ 14 uốn lượn theo những hàng thông. Mặt trời đã ở phía sau lưng, hoàng hôn lộng lẫy dát vàng lên những tàng cây cao vút. Khi bước chân tôi chạm vào vùng đất đỏ bazan thì sương mù cũng vừa bảng lảng.

Cá đồng mùa lụt

Cá đồng mùa lụt

(GLO)- Ở quê tôi, gia đình nào cũng có những bộ đồ nghề đánh bắt cá, chủ yếu là tự làm bằng tre nứa như: nơm, đó, lờ, ống lươn, rớ, đăng, cần câu, chà (chà di)… Ngay từ nhỏ, tôi đã được cha và chú dạy cách đan một số dụng cụ đánh bắt cá nước ngọt.

“Mưa trên biển vắng”

Mưa trên biển vắng

(GLO)- Tôi biết mình mãi là người của núi, nhưng thi thoảng trong giấc mơ mùa hạ, tôi lại nghe tiếng sóng vỗ nhòa vào mỏm đá xa xưa. Như thể tự kiếp nào, tôi đã bỏ quên ở biển thứ gì đó thẫm xanh, để bây giờ, không thể khác hơn, tôi luôn bị xâm chiếm bởi một nỗi nhớ biển.
Như cau trước bão

Như cau trước bão

(GLO)- Lúc gia đình tôi chuyển về nơi ở mới, ngay trước cửa đã có hàng cau thẳng tắp. Cây nối nhau, cao tầm hơn chục mét, như chiếc lược lớn chải vào mây trời.

Trăng ngọc ngà

Trăng ngọc ngà

Non đêm, mấy người đàn ông trung niên trong xóm tụ lại trước sân nhà Minh, chơi cờ giết thời gian, ca hát góp vài tiếng lao xao chờ đón trăng lên. Trong đám người lao xao đó có vợ chồng Thụy.
Mây ngũ sắc…

Mây ngũ sắc…

Bà ơi bà! Giá mà bà cháu mình được ngồi đung đưa trên vầng trăng lưỡi liềm kia thì vui phải biết. Hai bà cháu mình ngắm mây bay luồn qua những kẽ ngón chân. Thò tay xuống nhón mây chỗ này thả ra chỗ kia. Nặn lại mấy vầng mây hình thù xấu xí kia thành hình bông hoa, con cún.
Lời sóng vỗ

Lời sóng vỗ

(GLO)- Biển trong mắt người gắn mình với xứ núi hơn 40 năm luôn là một điều bí ẩn. Có lẽ vì thế nên những lần đắn đo lựa chọn điểm đến cho những kỳ nghỉ ngắn hoặc dài ngày, nơi có biển vẫn luôn là ưu tiên.
Nhớ những mùa vàng

Nhớ những mùa vàng

(GLO)- Những mùa lúa vàng trĩu bông thơm mùi rơm rạ là hình ảnh đã ăn sâu vào ký ức bao thế hệ người Việt, đặc biệt là những người lớn lên ở thôn quê.
Thơm thảo mùa thu

Thơm thảo mùa thu

(GLO)- Một buổi chiều thu, giữa người xe phố phường giăng mắc, tôi chợt thấy bên vỉa hè một chị hàng rong lặng lẽ bày ra những quả hồng. Những quả hồng chín ửng căng bóng, màu cam đỏ pha chút thẫm xanh dịu mắt được xếp vào chiếc mẹt tre.
Cơn bão đi qua

Cơn bão đi qua

Bão đi qua, ta thêm yêu thương, biết sẻ chia hơn với những mảnh đời khốn khó. Bão tan, ta bắt đầu lại từ những mầm xanh hy vọng...
Giấc mơ về mẹ

Giấc mơ về mẹ

(GLO)- Đêm khuya. Chốc chốc, những đợt mưa nối nhau quất rào rạt lên mái tôn. Hơi lạnh len lỏi xuyên qua lớp chăn thấm vào da thịt. Con gái tôi giật mình, khóc ré lên vì sợ.
Tự “chữa lành” cho bản thân

Tự “chữa lành” cho bản thân

(GLO)- Cứ gần đến ngày nghỉ lễ là các anh chị đồng nghiệp lại xúm xít hỏi nhau: “Lễ này đi chơi ở đâu?”. Còn tôi thì chỉ muốn nghỉ ngơi bên gia đình. Đã rất nhiều năm rồi, tôi không có khái niệm đi chơi ngày lễ, nhất là những chuyến đi chơi xa dài ngày.
Bất chợt mùa lá rụng

Bất chợt mùa lá rụng

(GLO)- Mùa thu ở xứ sở nhiệt đới như nước Việt chúng ta, sự chuyển đổi của thiên nhiên không rõ ràng, đặc tả như ở trời Âu. Nhưng sắc thái của mùa lá rụng cũng đủ để làm xao động lòng người, ghi dấu ấn vào thi ca, nhạc họa từ xưa đến nay
Sắc lan mùa phố

Sắc lan mùa phố

(GLO)- Người chơi lan vẫn có câu: “Kiến giả thị bảo, bất kiến giả thị thảo” (Nghĩa là: Biết thì là bảo vật, không biết thì chỉ là cỏ). Vì thế, mỗi người chơi lan sẽ có một cách ứng xử riêng với hoa.
Quê cũ

Quê cũ

(GLO)- Xe bắt đầu rẽ vào con đường bê tông rộng rãi. Trước mắt là xóm làng với những ngôi nhà cao tầng, mái lợp ngói đỏ nhấp nhô. Bên trái là cánh đồng lúa sắp vào vụ gặt, vàng ươm trải dài.

Tháng Chín...

Tháng Chín...

Tháng Chín khiến người ta nhớ và bâng khuâng khi vấn vương một tà áo trắng, một ánh mắt cười trong ngày khai giảng. Mới đó mà đã gần hai mươi năm trôi qua. Không dưng thèm bé lại, được hồn nhiên tung tăng cắp sách tới trường như thuở nào.