Vó ngựa cao nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
Đồi núi chiêng chao, cây rừng nghiêng ngả, mái tóc phiêu bồng…, K’Truik đang cùng con tuấn mã Rambô tung vó băng băng về đích trong ánh mắt đắm đuối của sơn nữ buôn làng.

Có lẽ, hiếm nơi nào có “hội đua ngựa” độc đáo, nguyên sơ và hồn nhiên như thế! “Kỵ mã” đầu trần, chân trần, ngựa không yên, không bàn đạp. Họ bước vào cuộc chơi bản năng phóng khoáng, để thỏa chí và thể hiện bản lĩnh của những bước chân lữ hành không bao giờ mỏi…

1. Chiều xuống yên ả phía chân núi Lang Biang (huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng). Chúng tôi ngược về núi để chứng kiến các “kỵ mã chân trần”, những người con sinh ra giữa buôn làng, lớn lên trên lưng ngựa... tự do bay bổng với cuộc chơi bên sườn núi.

Bên con ngựa “vằn” Lang Biang vừa thắng cuộc chơi, K’Truik nói: “Ồ, ở xứ sở này, những đứa trẻ lên năm, lên bảy đã biết cưỡi ngựa cỏ rong chơi, biết ngã cùng ngựa. Ngựa cũng như người, phải biết vuốt ve nó từ nhỏ thì nó mới thích mình, nghe mình”.

Ngày trước, ở buôn người Lạch, Cil dưới chân núi này nhà nào cũng phải có vài con ngựa. Ngựa được thả đi hoang trong rừng, mỗi tuần mới “thăm” một lần để xác định vị trí, lúc nào cần mới huýt sáo tìm về. Già Păng Ting Bụt từng là chàng trai phong trần, lãng tử ngày nào đã nhiều lần chinh phục gái đẹp trong buôn trên lưng ngựa. Già nói, thời Pháp, ở cao nguyên này thường xuyên tổ chức đua ngựa không yên, và già đã nhiều lần mang về vinh quang cho người Lạch. “Dạy ngựa khó lắm, phải ngã bùn, ngã suối với nó nhiều lần thì mới thuần được. Còn đua ngựa không yên thì hai cái đùi là quan trọng, vì đó là bộ phận điều khiển ngựa, giữ thăng bằng”, già Păng Ting Bụt cho hay.

Mỗi lần đi rẫy “thăm” trâu, đi rừng “thăm” ngựa là bọn trẻ tụ họp đua ngựa. Nói là cuộc chơi, nhưng con ngựa nào về đích trước là nổi tiếng khắp buôn, và người điều khiển cũng có giá “bắt chồng” cao ngất ngưởng. K’Truik vinh dự được buôn làng nhiều lần gọi tên con tuấn mã của mình là Ơh sha pran kơ (con ngựa mạnh mẽ). Ngoài những cuộc chơi, K’Truik cùng con Rambô đã bốn lần đoạt quán quân trong các giải “đua ngựa không yên” do tỉnh, huyện tổ chức. Hãnh diện lắm! Bởi thế, nên đã tốt nghiệp trường Đại học Văn hóa nghệ thuật quân đội, nhưng K’Truik vẫn trở về bên đàn ngựa của ông nội để lại, để cùng vui, cùng buồn trong những cuộc chơi với đám bạn “kỵ mã” trong buôn, như K’Hiêm, K’Tiến, Cil Bris… với những chú ngựa cưng Juli, Jiky, Biôli…

Đua ngựa ở Lang Biang.

Đua ngựa ở Lang Biang.

Ngựa là người bạn không thể thiếu đối với người sống phía thượng nguồn. Ngựa giúp con người qua đèo dốc hiểm trở, ngựa để cưỡi đi “thăm trâu, thăm bò”, ngựa để đổi chác… “Người Lạch còn đi tán gái bằng ngựa đó. Hồi xưa, vùng Păng Tiêng, Đam Rông nghe tiếng vó ngựa người Lạch là nể rồi”, già Krajan Plin thổ lộ. Bởi thế, ca dao người Lạch có câu: “Con ngựa Păng Tiêng tôi đã cưỡi/ Bông hoa Păng Tiêng tôi đã ngửi…”

Đua ngựa không yên chinh phục đỉnh núi Lang Bian là trò chơi dân gian, hình thành một cách hồn nhiên như để thể hiện sức mạnh, sự phóng khoáng, bay bổng của những người con núi rừng nam Tây Nguyên.

2. Chia tay với những “kỵ mã chân trần”, chúng tôi trở về TP. Đà Lạt khi sương trắng phủ kín mặt hồ. Đêm càng khuya, Đà Lạt càng lạnh. Trên cao, vầng trăng bàng bạc hắt xuống phố. Chợt có tiếng vó ngựa gõ nhịp trên dốc vắng như bản tình ca chậm đều, buông lơi. Lục lại ký ức, thuở Đà Lạt còn hoang vu, người Pháp đã dùng phương tiện là ngựa để đến đây. Và, một phần nhờ ngựa mà bác sĩ Yersin đã chinh phục cao nguyên Lâm Viên, khai sinh Đà Lạt. Đến những năm 1930, cung đường Lamartine vòng quanh hồ Xuân Hương có một đường chính, hai đường phụ dành cho người cưỡi ngựa và đi xe đạp. Vó ngựa đã gắn với Đà Lạt từ thuở đó…

Đã qua tuổi “xưa nay hiếm” nhưng lão xà ích Phạm Đứng, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã Xe ngựa Đà Lạt một thời vẫn phảng phất nét phong trần. Lão kể: Trước thời Bảo Đại, vó ngựa Đà Lạt đã gõ nhịp trên những con đường dốc hoang sơ chạy quanh thành phố. Thời đó, người ta gọi là xe thổ mộ, có hai băng ghế dọc, bánh gỗ và bạc đồng, giờ thì đã thành… đồ cổ. Sau đó một thời gian, hàng loạt xe ngựa xuất hiện trên thành phố mộng mơ. Ngựa chở hàng từ nhà vườn tỏa đi các chợ, đưa học sinh đến trường, ngựa giúp du khách qua những chốn phiêu bồng… “Chiếc xe ngựa đã gắn bó với người Đà Lạt và trở thành nét độc đáo không thể thiếu trong lòng du khách”, lão xà ích Phạm Đứng tâm sự.

Dịch vụ ngựa thồ thịnh hành một thời tại Lâm Đồng.

Dịch vụ ngựa thồ thịnh hành một thời tại Lâm Đồng.

Đà Lạt trong kỷ niệm của khách lữ thứ là mimosa òa mình bên thác đổ, mai anh đào hồng gối trời xanh, là biệt thự cổ... và không thể thiếu âm thanh nhịp vó ngựa gập ghềnh. Không giống các phương tiện khác, xe ngựa dung hòa con người trong một không gian mở, không gian của chuyện nhân tình thế thái, không gian của cộng đồng.

Hơn ba thập niên trong nghề, xà ích Trần Mạnh Dũng cho rằng, lòng yêu nghề là sợi dây buộc chặt ông với chiếc xe ngựa. Tiếng vó ngựa lóc cóc trên đường phố Đà Lạt nửa đêm lục lạc ngựa về… là những thanh âm thăm thẳm trong lòng. Ông Dũng nhớ ngày xưa xe ngựa nhiều lắm, một cái xe nuôi cả nhà. Giờ chỉ còn khoảng mươi chiếc của những người không chịu “buông” nghề, giữ lại làm du lịch, rước dâu, đóng phim. Cung đường đi cũng đã ngắn dần, không còn rong ruổi cùng du khách như xưa nữa.

Nhưng dù sao, trong muôn vàn âm thanh cuộc sống, trên phố thị cao nguyên Đà Lạt tĩnh lặng, xa xăm, tiếng vó ngựa vẫn gõ ròn trên dốc vắng và cả tiếng lục lạc xao động miền ký ức. Đó là nét văn hóa, hình ảnh tâm thức đối với ai đã từng một lần đặt chân lên thành phố cao nguyên.

3. Mấy ai có được cái thú mỗi buổi chiều ngồi vắt vẻo bên thành xe ngựa, nhìn ngắm ruộng đồng xanh mướt và bình yên, tiếng vó ngựa gõ nhịp, tiếng lục lạc len trong gió. Đời xà ích ở xứ trồng rau nổi tiếng Đơn Dương (Lâm Đồng) là thế. Sướng mà… lam lũ. Ông Nguyễn Quốc Xuân, người đã trải qua 40 năm gắn bó với nghề ngựa ở xã Lạc Lâm nói: “Con người sinh ra, nếu được chọn nghề thì ít ai chọn nghề xe ngựa, nhưng “kiếp” ngựa đã chọn mình…”. Lục tìm ký ức, ông Xuân kể, thời huy hoàng của nghề xe ngựa là vào thập niên 90 thế kỷ trước, ở đây có trên dưới 500 xe. Ngựa “nuôi” cả gia đình mình. Một ngày làm xe ngựa bằng sáu công làm hợp tác xã. Giờ không còn mấy, vì ô tô nhiều rồi.

Đời người, đời ngựa ở xứ này cứ đan xen, quấn quyện. “Người xưa có câu: “làm thân trâu ngựa” nhưng với nghề này, mình đói chứ không để ngựa đói” - anh Nguyễn Quốc Trưởng, người nối nghiệp xe ngựa của ông Xuân triết lý. Tôi hiểu, cũng giống những xà ích ở Đà Lạt, kinh tế của các gia đình này chủ yếu nhờ vào sức ngựa. Song, có lẽ trong tương lai, những con Hồng, con Tía (tên ngựa)… trên vựa rau Đơn Dương rồi cũng chồn chân, để lại khoảng trống mênh mang cho những gã xà ích trót yêu nghề ngựa. “Đến đâu, hay đó. Ở huyện nông thôn mới này, ô tô đã đến từng vựa rau. Nói thế, chứ ai đã chọn nghề ngựa để mưu sinh, đã yêu nghề thì không thể nào bỏ được”, anh Trưởng nói.

Theo sự phát triển của xã hội, “chức năng” của ngựa đã bị thu hẹp và ngựa trên cao nguyên Lâm Viên cũng giảm đi nhiều. Nhưng, vào một đêm trăng thanh lên xứ mộng mơ Đà Lạt, một chiều thung thăng đi về phía núi… tiếng vó ngựa vẫn gõ ròn và tung bay trên nền trời xanh sâu thẳm.

Link bài gốc: https://baodaklak.vn/phong-su-ky-su/202309/vo-ngua-cao-nguyen-6651446/

Có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong phòng, chống mua bán người - Bài 1: Những cuộc đời bị đánh cắp

Quyết tâm mạnh mẽ của Việt Nam trong phòng, chống mua bán người - Bài 1: Những cuộc đời bị đánh cắp

Nạn mua bán người gây ra những hậu quả không thể đo đếm được khi tước đoạt tương lai, cuộc sống và để lại nỗi đau tận cùng cho nạn nhân, gia đình họ cùng nhiều người khác. Thấu hiểu nỗi đau đó, Đảng, Nhà nước, Quốc hội và cả hệ thống chính trị quyết liệt đấu tranh với loại tội phạm này. Luật Phòng, chống mua bán người sau hơn 10 năm được Quốc hội thông qua đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng, có ý nghĩa chính trị cả về đối nội, đối ngoại và thể hiện quyết tâm của Việt Nam trước vấn nạn nhức nhối cần loại bỏ.
Sóc, Bẹc dưới bóng mây Tà Xiên

Sóc, Bẹc dưới bóng mây Tà Xiên

Con chó Sóc có màu lông xám pha trắng giống màu gấu trúc, còn con chó Bẹc có lông vàng pha đen. Cả 2 con không phải vật lộn để sinh tồn như con chó Ca Dăng trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thế giới của nhà văn James Oliver Curwood. Cả 2 con phải quen với mùi hương mới, khi sự đổi thay lan khắp vùng cao xã Ga Ri (Tây Giang).
Phía sau những gánh hàng rong - kỳ 2: Những đêm dài…

Phía sau những gánh hàng rong - kỳ 2: Những đêm dài…

Họ cũng muốn được quây quần bên mâm cơm tối cùng gia đình, được ngủ say trên chiếc giường có chăn ấm, nệm êm. Nhưng cuộc mưu sinh không cho họ lựa chọn nào khác. “Nghề của mình như vậy, đã đâm lao thì phải theo lao. Đời mình không sướng được thì cố để con cháu được sướng thay mình”, chị Lợi, một người bán hàng rong ở bờ hồ Hoàn Kiếm tâm sự...
Mùa thiên di của người

Mùa thiên di của người

Khi những cơn mưa dầm của tháng 11 dần tắt, gió chướng bắt đầu thổi về, mang cái hanh khô, se sắt phủ tràn lên những bạt ngàn cà phê chín đỏ, đó là khi đoàn người thiên di từ khắp các ngả quê đổ về Tây Nguyên. Dù đã nhiều lần đến Tây Nguyên vào mùa gió chướng, gặp những đoàn người thiên di mùa cà phê chín, nhưng tôi vẫn có cảm xúc khó nói hết thành lời…
Lấp lánh những 'vầng trăng khuyết', Kỳ 2: Chim cánh cụt vẫn có thể bay

Lấp lánh những 'vầng trăng khuyết', Kỳ 2: Chim cánh cụt vẫn có thể bay

Từ một người khuyết tật, chị Nguyễn Thị Huyền đến từ Đắk Nông không ngừng nỗ lực vươn lên làm chủ cuộc sống, tạo việc làm cho nhiều người cùng cảnh ngộ. Chị chia sẻ: “Đẹp không chỉ ở nhan sắc, đi không chỉ nhờ đôi chân, chim cánh cụt vẫn có thể bay nếu chúng ta đủ niềm tin và nghị lực”.
Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 3: Đối đầu với quân đội Nhật ở An Khê

Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 3: Đối đầu với quân đội Nhật ở An Khê

(GLO)- Trước khí thế sôi sục của Nhân dân từ nông thôn đến thành thị trên cả nước đang vùng lên như nước vỡ bờ, Tri huyện Tân An Phan Sĩ Sàng đã bỏ trốn; quân đội Nhật lặng lẽ rút khỏi An Khê. Đoàn Thanh niên Chấn Hưng cử anh Trần Thông cùng một số thanh niên cốt cán vào Đồn Bảo an gặp Đội Kiệt để giải thích hiện trạng đất nước, địa phương và đề nghị giải giáp vũ khí, giải tán lính Bảo an ở huyện lỵ.
Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 2: “Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ”

Mạch ngầm sông Ba - Kỳ 2: “Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ”

Ư(GLO)- Đỗ Trạc thường đọc cho bạn bè ở vùng An Sơn nghe trong giai đoạn anh từ Huế trở về quê để chờ thời, chuẩn bị cho một hành trình mới trong đời, đó là những câu đầy trăn trở trước thời cuộc: “Nào ai tỉnh, nào ai say/Lòng ta ta biết, chí ta ta hay/Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ/Hà tất cùng sầu đối cỏ cây…” (Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác-người theo phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Chu Trinh). Một số thanh niên và trí thức nông thôn ở An Khê bấy giờ đang hoang mang, đứng ở ngã ba đường. Không khí chiến tranh khá ngột ngạt bao trùm khắp nơi, các tổ chức yêu nước bị giặc khủng bố, đàn áp.
Rước rể

Rước rể

Khi cô gái Êđê muốn lấy người con trai ưng ý làm chồng, bên nhà gái phải nhờ ông mai là em trai mẹ hoặc người lớn tuổi trong dòng họ am hiểu luật tục chuẩn bị sính lễ mang đến nhà trai làm lễ hỏi chồng. Sau thời gian 'gửi dâu' từ 2 đến 3 năm, nhà trai chấp thuận sẽ đồng ý cho nhà gái tiến hành rước rể.