Về tấm bản đồ thời Pháp tại sở trà Bàu Cạn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Trong số những hiện vật, công trình mà người Pháp để lại tại sở trà Bàu Cạn (nay là Công ty cổ phần Chè Bàu Cạn) có một thứ khá đặc biệt là bản đồ phân khu quy hoạch vùng đất Bàu Cạn những năm 20 của thế kỷ XX, hiện được lưu giữ tại trụ sở Công ty. Sau hàng thế kỷ với những chuyển dịch không ngừng trong đời sống kinh tế-xã hội, quy hoạch về khu vực xây dựng đồn điền vẫn mang tính khoa học và không có nhiều thay đổi.


Bản đồ có kích thước 1,5 m x 2,5 m in bằng giấy bìa cứng, đóng khung bằng gỗ thông. Có thể nhìn thấy dòng chảy thời gian lưu dấu trên màu vàng ngà của tấm bản đồ sau hàng thế kỷ. Ông Nguyễn Ngọc Minh-Trưởng phòng Kế hoạch-Nông nghiệp (Công ty cổ phần Chè Bàu Cạn) thông tin: Đến những năm 2000, bản đồ bị mối mọt có nguy cơ hư hỏng một số vị trí nên Công ty đã sửa chữa, đóng khung lại bằng gỗ thông và treo ở phòng khách. Phân khu quy hoạch của người Pháp về vùng đất Bàu Cạn trên bản đồ so với thực tế hiện nay thì không có nhiều thay đổi. Chỉ có một số diện tích chè già cỗi đã chuyển sang trồng cà phê và khoảng hơn trăm héc ta chè trồng mới, còn lại đều tái canh trên vườn chè cũ. Diện tích chè của người Pháp trồng thời điểm cao nhất (năm 1968) là khoảng 600 ha, đến nay còn khoảng 250 ha. Diện tích còn lại là tái canh các giống chè mới, trồng cà phê và chuối xuất khẩu. Hiện nay, tổng diện tích sản xuất nông nghiệp của Công ty so với diện tích quy hoạch trên bản đồ tăng khoảng hơn 100 ha.

Tấm bản đồ được lưu giữ tại trụ sở Công ty cổ phần Chè Bàu Cạn. Ảnh: Hoàng Ngọc
Tấm bản đồ được lưu giữ tại trụ sở Công ty cổ phần Chè Bàu Cạn. Ảnh: Hoàng Ngọc

Ngoài quy hoạch diện tích chè, bản đồ còn thể hiện khá rõ quy hoạch đời sống kinh tế-xã hội của một vùng đất với khu sản xuất, khu dân cư, chợ, bệnh xá, trường học, chùa, sân bay, hệ thống cấp điện, nước tương đối hoàn chỉnh. Công tác lâu năm trong ngành điện và có thú sưu tầm hình ảnh, tư liệu lịch sử hình thành đô thị Pleiku cũng như các vùng lân cận, ông Nguyễn Quang Hiền (03 Tăng Bạt Hổ, TP. Pleiku) cho biết: Ông đã nhiều lần vào thăm, làm việc ở khu vực đồn điền chè Bàu Cạn và nghiệm ra có thể tìm hiểu nơi này để đối sánh với đô thị Pleiku. Từ lịch sử hình thành vùng đất này lại thấy dáng vóc vùng đất kia bởi những tương đồng thú vị. Nếu đồn điền chè Bàu Cạn hình thành năm 1923 thì đến tháng 12-1929, đô thị Pleiku được thành lập. Tuy thời điểm hình thành gần nhau nhưng với đặc thù của một khu vực sản xuất và để phục vụ kịp thời hoạt động sản xuất kinh doanh, một số yếu tố ở đồn điền chè Bàu Cạn thường đi trước một bước so với đô thị Pleiku. Chẳng hạn, trước năm 1961, khi chưa có Sân bay Cù Hanh (Sân bay Pleiku ngày nay), máy bay muốn hạ cánh xuống Pleiku phải nhờ Sân bay Gia Tường của đồn điền Bàu Cạn. Hay những năm 50 của thế kỷ trước, đồn điền này đã xây dựng hẳn một đường dây bán điện cho đô thị Pleiku nhờ có công trình thủy điện đầu tiên của khu vực Bắc Tây Nguyên và thứ 2 cả nước.

Một phần bản đồ quy hoạch thể hiện rất chi tiết khu vực sở trà Bàu Cạn ngày nay. Ảnh: Hoàng Ngọc
Một phần bản đồ quy hoạch thể hiện rất chi tiết khu vực sở trà Bàu Cạn ngày nay. Ảnh: Hoàng Ngọc

Ông Hiền cho biết: “Sự phân khu quy hoạch ở đồn điền chè Bàu Cạn sau hàng thế kỷ nhìn lại vẫn thấy hợp lý và khoa học”. Chỉ bằng một tấm bản đồ với kích thước như một bức họa trang trí lại nhìn thấy nhiều câu chuyện khác nhau về một vùng đất mà lĩnh vực nào dường như nơi này cũng là điểm khởi phát. Lịch sử một vùng đất có thể viết ngàn trang sử nhưng có khi chỉ cần khái quát hóa bằng một tấm bản đồ như vậy.

Lịch sử cây chè trên cao nguyên là câu chuyện dài, nhiều dư vị. Dưới những tán chè xanh trăm tuổi là bao điều chưa kể hết. Có những gia đình 4 thế hệ gắn với cây chè nơi này. Thế hệ đầu tiên trồng chè từ thời Pháp. Đến thế hệ thứ 4 là bạn tôi bằng cách nào đó vẫn đang góp phần đánh thức hương chè khi chuyển hướng sang kinh doanh sản phẩm chè từ các đồn điền trăm năm trên xứ cao nguyên sương mù. Do vậy, việc khảo cứu có hệ thống để hiểu thấu đáo, tường tận hơn về lịch sử ngành trà, con người, vùng đất… đã làm nên một không gian nông nghiệp vô cùng thi vị cho cao nguyên Gia Lai là điều rất cần thiết.

HOÀNG NGỌC

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

null