Trường Sa, tháng 4 lịch sử 1975-Kỳ 1: 3 con tàu bí mật

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
17h30 ngày 4-4-1975, đại tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã gửi đi bức điện mật về quần đảo Trường Sa để mở ra trang lịch sử mới cho quần đảo Tổ quốc.
 
Đặc công trung đoàn 126 đổ bộ lên đảo Song Tử Tây - Ảnh: My Lăng chụp lại
Năm ngày sau, ngày 9-4-1975, trong lúc các cánh quân cách mạng trên bộ bắt đầu tiến công vào thị xã Xuân Lộc (Đồng Nai), tuyến phòng thủ vòng ngoài của quân đội Sài Gòn thì Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận lệnh: đưa ngay tàu ra quần đảo Trường Sa.
Mật lệnh cho đặc công nước
Khi đó, đại đội 1 của trung đoàn đặc công Hải quân 126 đang làm nhiệm vụ bảo vệ một số căn cứ ở bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) thì được lệnh bàn giao gấp cho Quân khu 5 và tập kết ngay tại quân cảng Đà Nẵng.
20h ngày 10-4-1975, biên đội 3 tàu của Đoàn 125 gồm 673, 674 và 675 cập cảng Đà Nẵng. Ba chiếc tàu này được cải trang thành tàu đánh cá, không số, không treo cờ. Lực lượng đổ bộ lên đảo (gồm ba phân đội của đội 1) được thành lập, phiên hiệu là Đoàn C75, do trung đoàn trưởng Mai Năng, trung đoàn đặc công Hải quân 126, làm chỉ huy trưởng.
4h sáng 11-4-1975, Đoàn C75 xuất phát từ Đà Nẵng ra Biển Đông. Ngoài lực lượng đặc công nước của hải quân còn có một phân đội hỏa lực của tiểu đoàn đặc công nước 471 (Quân khu 5) đi cùng phối hợp. 
"Tiểu đoàn tôi chọn 36 người có sức khỏe, tinh thần chiến đấu cao nhất, xác định đi có thể không quay về", ông Phan Xuân Ạp, 68 tuổi, nguyên cán bộ tham mưu tiểu đoàn đặc công nước 471, cho hay.
Để giữ bí mật, bộ đội phải xuống hết khoang hầm hàng. "Dưới đó bị bịt kín, mùi xăng dầu lùa vào nên ngột ngạt lắm. Tàu lại nhỏ nên lắc. 
Lính đặc công nước mà say sóng gần hết. Anh em nhiều người nôn mật xanh mật vàng", ông Lê Xuân Phát, 77 tuổi, người lính tham gia đổ bộ lên Trường Sa 45 năm trước, nhớ lại.
Theo thông tin tình báo đưa về, lực lượng Việt Nam cộng hòa đóng trên năm đảo (Sơn Ca, Sinh Tồn, Nam Yết, Trường Sa, Song Tử Tây) có khoảng 150 lính, thuộc tiểu đoàn 371 Phước Tuy. 
Sở chỉ huy chung được đặt tại đảo Nam Yết. Đây cũng là đảo có quân số đông nhất (50 lính). Đảo đông thứ hai là Song Tử Tây với 39 lính.
"Ý định của trên là đi đánh lên đảo Song Tử Tây trước để rút kinh nghiệm, sau đó còn đánh tiếp các đảo khác vì có nhiều thứ khó khăn ban đầu với đặc công đi đánh đảo", ông Đào Mạnh Hồng, 69 tuổi, một trong những người lính trực tiếp đánh đảo Song Tử Tây, cho hay.
Song Tử Tây là hòn đảo ở phía bắc quần đảo Trường Sa, cách Đà Nẵng 480 hải lý. Nhưng nhờ những lần chở vũ khí cho chiến trường miền Nam thường xuyên qua vùng biển này nên thủy thủ Đoàn 125 không khó khăn để nhận biết đảo. 
Ông Nguyễn Xuân Thơm, thuyền trưởng tàu 673, cung cấp một số thông tin: đảo Song Tử Tây hình quả trám. Phía tây thấp, phía đông cao hơn mặt biển vài mét. Trên đảo có ba lô cốt, ở giữa hình như có lô cốt hầm ngầm.
17h ngày 13-4-1975, biên đội tàu đã đến gần đảo Song Tử Tây. Chỉ huy trưởng Mai Năng lệnh cho tàu 673 vòng vào gần đảo để trinh sát. Sau đó các tàu di chuyển ra xa đảo để làm công tác chuẩn bị thực hiện phương án chiến đấu. Sở chỉ huy được đặt trên tàu 675.
Cuộc đổ bộ lúc 1h đêm
Phân đội 1 được chỉ huy trưởng chiến dịch Mai Năng chọn đánh đầu tiên, do đại đội trưởng đại đội 1 Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy chung. Còn thượng sĩ Đào Mạnh Hống (sau này là Đào Mạnh Hồng - PV), phân đội trưởng phân đội 1, sẽ chỉ huy trực tiếp phân đội đánh đảo. Thượng sĩ Đào Mạnh Hống khi đó đã có năm năm kinh nghiệm chiến đấu, từng đánh 15 trận ở Cửa Việt (Quảng Trị).
Phân đội tiên phong này có ba tổ chiến đấu và được hỗ trợ thêm 2 khẩu đội DKZ và 1 khẩu cối 82mm của tiểu đoàn 471 đặc công Quân khu 5. Theo phương án, tàu 673 chở phân đội 1 vào gần đảo để đổ bộ trước. Hai tàu còn lại cơ động ra án ngữ ở phía bắc và phía nam đảo sẵn sàng yểm hộ khi cần thiết.
1h đêm ngày 14-4, tàu 673 tắt đèn, lặng lẽ tiến vào gần đảo, thả xuồng. Thời gian là yếu tố sống còn. Phân đội 1 chia làm ba mũi, bắt buộc phải đột nhập lên đảo trước khi trời hửng sáng. "Khi xuồng cách đảo khoảng 5km, bộ đội nhảy xuống biển bơi vào đảo. Suốt mấy ngày trên tàu, thậm chí đến lúc xuống xuồng cao su để chuẩn bị vào đảo tôi vẫn còn say sóng. 
Nhưng khi thả quân bơi vào thì tỉnh như sáo! Sóng cứ nhấp nhô, đêm tối lại không được sử dụng đèn pin nên chúng tôi phải nương theo sóng. Có khi lại bị cuốn dạt đi", ông Đào Mạnh Hồng kể.
Do sóng đánh quá mạnh, khẩu cối 82mm của mũi 1 rơi xuống nước. Sau hơn hai tiếng vật lộn với sóng lớn và nước xoáy, lực lượng đổ bộ đã tiếp cận được các vị trí từ hướng nam, hướng tây và hướng đông nam đảo.
 
Tàu của Đoàn 125 bí mật chở đặc công ra Trường Sa tháng 4-1975 - Ảnh: My Lăng chụp lại
Ngày mới bắt đầu
Gần 4h30. Ngoài đảo trời hửng sáng sớm hơn trong đất liền. "Đảo chỉ có mấy cây cao. Trên đảo chim hải âu, chim biển rất nhiều. Lúc bò lê tiếp cận còn đè bẹp cả trứng chim. Lính ở vọng gác thấy chim bay lên bắn vài viên đạn vu vơ cảnh báo chứ không phải vì phát hiện mình. Mình lên đến chiến hào, nổ súng, đối phương mới phát hiện", ông Lê Xuân Phát kể.
4h30 ngày 14-4, phân đội trưởng Đào Mạnh Hống lệnh cho chiến sĩ Lê Minh Đức bắn ba phát súng B41 vào ăngten sở chỉ huy, mở đầu trận đánh và nhanh chóng làm chủ chiến trường. 
5h15 phút, lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên đỉnh cột cờ của đảo Song Tử Tây. Đó cũng là khoảnh khắc ngày mới vừa bắt đầu, ngày 14-4-1975.

“Khó khăn là đặc công nước chưa có tiền lệ đánh chiếm đảo. Đặc công nước trước đó chỉ đánh cầu, đánh tàu, đánh kho tàng ở ven cảng, ven sông, ven đầm hồ. Lần này chúng tôi phải từ tàu đột nhập, tiền nhập, tiếp cận vào đảo. Nhưng trong đảo, quanh đảo, đối phương bố phòng như thế nào mình không nắm được vì không được đi trinh sát”, ông Đào Mạnh Hồng cho hay.

"Để giương lá cờ cách mạng lên Trường Sa, chúng tôi đã hi sinh hai người. Một người hi sinh ngay tại đảo Song Tử Tây. Một người bị thương, theo tàu về đất liền và hi sinh", cựu chiến binh Đào Mạnh Hồng kể.

Kỳ tới: Hai liệt sĩ đầu tiên ở Trường Sa
My Lăng (TTO)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Tự hào là mảnh đất “phên dậu” của đất nước, nơi có các di tích lịch sử oai hùng như: Pháo đài Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) trỗi mình sau cuộc chiến biên giới 1979, trở thành điểm đến của du khách muôn phương.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

…Từ Nam Sudan, đất nước vẫn còn non trẻ và đầy rẫy bất ổn này, chúng tôi thấy những gam màu ảm đạm: màu vàng của sa mạc, màu nâu của bùn đất, màu đen của những khẩu súng và đặc biệt là hình ảnh vô cùng đáng thương của những đứa trẻ chăn bò.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.

Người gieo ánh sáng yêu thương

Người gieo ánh sáng yêu thương

Bị khiếm thị từ nhỏ, song Lã Minh Trường, sinh năm 2001, nguyên Chủ nhiệm Câu lạc bộ Sinh viên khuyết tật TP Hà Nội, đã vươn lên trong học tập, thi đấu thể thao và tích cực hoạt động công tác xã hội trong 5 năm qua.