Trăm năm xe nước bên sông

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Gần 50 năm vắng xa, bây giờ bờ xe nước - cỗ máy bằng tre vốn là biểu tượng bên dòng sông một thời ngày đêm quay đều mang nước tưới cho ruộng đồng xanh tốt, vẫn có một người ngày đêm dựng tạo lại, để một“kỳ quan đồng ruộng” không biến mất.

Nhung nhớ bến sông

Trong căn nhà nằm êm đềm dưới gốc cây vú sữa cổ thụ, người đàn ông tóc đã bạc trắng nhưng vẫn cần mẫn thực hiện một “công trình của ký ức” một thời. Ông Mai Văn Quýt (79 tuổi, thôn Thống Nhất, xã Tịnh Ấn tây, TP Quảng Ngãi) nhiều năm qua vẫn cố gắng để dựng lại bờ xe nước, một công cụ đưa nước tưới tiêu từ dòng sông lên đồng ruộng đã vắng bóng gần 50 năm qua ở đất này.

Bờ xe nước trên sông Trà. (Ảnh tư liệu)

Bờ xe nước trên sông Trà. (Ảnh tư liệu)

Ông Quýt kể lại, dọc con sông Trà Khúc mỗi mùa khô, những bờ xe nước được đặt bên sông để guồng nước đưa vào đồng ruộng tưới tiêu. Mỗi bờ xe đặt trên sông như thế có khoảng 9-10 bánh xe, mỗi bánh có đường kính khoảng 10-12m. Chiếc bờ xe nước mà ông hoàn thiện bây giờ chỉ bằng một phần nhỏ của những bờ xe nước khi xưa. Trong ngôi nhà hai tầng cũ kỹ nằm gần bờ sông, những bánh xe nước của ông có đường kính khoảng 2m. Và mỗi bánh xe ấy ông phải làm trong khoảng 1 tháng mới xong. Với một bờ xe nước từ 9-10 bánh xe như thế, ông phải mất cả năm ròng để làm thô, sơn phết chống mối mọt, rồi ráp từng bánh xe vào kệ và hoàn thiện từng phần một.

Giống như những “cọn nước” ở vùng núi phía Bắc, điều đặc biệt của những bờ xe nước này là sự liên kết với nhau của tất cả các bánh xe thay vì đặt từng bánh xe rời như đồng bào vùng núi phía Bắc. Ông Quýt bộc bạch rằng, với những bờ xe nước sông Trà thuở trước với đường kính 12m, phải làm trong vài tháng với gần 10 người cùng chung sức, chưa kể nguyên liệu là tre phải được chuẩn bị trước cả năm trời mới đủ. Những thân tre dài chừng 5-7m được thu gom về, ngâm nước khoảng 6 tháng để chống mối mọt thì mới có thể sử dụng. Người chủ đạo cho công trình phải có kiến thức, phải có kỹ năng để chỉ đạo từng người thực hiện phần công việc của mình. Để dựng bờ xe nước, từng người thợ phải bắc giàn giáo cao 6-8m, sử dụng những cây tre được ngâm nước để đặt buộc, ghép mộng, đan cài nhau làm sao cho bánh xe được dần thành hình và thật chắc chắn. Tất cả những công việc ấy phải được thực hiện bên mép sông, nơi những phù sa từ thượng nguồn sủi bọt sóng vỗ vào từng thân tre. Những bánh xe nước được dựng lên bên vùng nước được gọi là “bờ cừ”. Xung quanh mỗi bánh xe được buộc lạt kết nối hàng trăm ống tre đặt nghiêng một góc đã được tính toán cẩn trọng, để khi bánh xe quay các ống tre mang đầy nước quay tròn đưa lên cao đổ vào máng nước, dẫn nước về đồng ruộng phía xa. Khi một bánh xe nước hoàn thành, trọng lượng khi ngậm nước có thể nặng tới hơn 1 tấn.

Do làm thủ công nên mỗi bánh xe nước phải mất cả tháng trời để hoàn thiện.

Do làm thủ công nên mỗi bánh xe nước phải mất cả tháng trời để hoàn thiện.

Trong nỗi nhung nhớ bến sông của mình, ông Quýt tiết lộ rằng thông thường mỗi bờ xe nước như thế có tuổi đời 40-50 năm. Tuy nhiên, sau mỗi mùa mưa bão hay nước lũ thượng nguồn sông Trà đổ xuống, nhiều bờ xe nước bị cuốn trôi hoặc hư hỏng. Người dân làng trên xóm dưới lại cùng nhau sửa chữa, dựng lại để dẫn nước cho vụ mùa. Lâu dần, những khi xong vụ tưới tắm, người làng lại huy động ra sông để dời bờ xe nước vào gần bờ hơn phòng những cơn lũ lụt. Những bờ xe nước bởi vậy không chỉ đơn thuần là công cụ trong lao động sản xuất, là công trình nghệ thuật mang dấu ấn riêng của bàn tay, khối óc con người, mà còn chứa đựng nét đẹp văn hóa truyền thống, là nút thắt tình cảm đoàn kết thêm thắm đượm, nghĩa tình của xóm làng bên đồng ruộng. Chính vì thế, bờ xe nước mới được xem là biểu tượng của người Quảng Ngãi về tính cần cù, sáng tạo, được coi là giải pháp thủy lợi quan trọng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp thời khốn khó 40-50 năm trở về trước.

Trong lịch sử, bờ xe nước ra đời sớm ở Quảng Ngãi khoảng giữa thế kỷ 18, sau đó có mặt ở một số tỉnh khác. Tác giả P.Guillenmiet trong sách nghiên cứu: “Một ngành công nghiệp An Nam: Các guồng xe nước ở Quảng Ngãi” (năm 1926) cho rằng, các xe nước xuất hiện sớm nhất ở Quảng Ngãi là ở sông Vệ vào năm 1740, cụ thể là xe nước ở làng Bồ Đề (nay thuộc xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi). Tuy nhiên số lượng bờ xe nước những nơi khác không nhiều, chỉ chủ yếu tập trung trên lưu vực sông Trà và sông Vệ, nơi hai con sông lớn nhất của Quảng Ngãi này từng có không dưới 114 bờ xe nước, đưa nước tưới tắm cho hàng chục ngàn ha đất, cho người dân no ăn ấm áo một thời. Nhưng rồi qua thời gian, công trình thủy nông có tầm vóc được tạo nên từ bàn tay, khối óc và tốn không ít thời gian ấy rồi cũng bị thay thế. Khi kênh thủy lợi Thạch Nham được xây dựng và vận hành, máy bơm nước bằng dầu, rồi bằng điện được đưa vào sử dụng thì bờ xe nước cũng như đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử trăm năm của mình trên vùng đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp này.

Ngôi nhà của ông Quýt, nơi ông dành để dựng lại bờ xe nước.

Ngôi nhà của ông Quýt, nơi ông dành để dựng lại bờ xe nước.

Nhưng, trong tâm thức của những người lớn tuổi, những người đã sống và lớn lên bên sông Vệ, sông Trà, thì bờ xe nước vẫn luôn là điều gì đó gợi nhớ, khắc khoải, đau đáu và da diết đến cồn cào. Mỗi người ai cũng có một con sông quê trong lòng mình, nhưng với người dân xứ Quảng Ngãi này, gắn với con sông còn là bờ xe nước như thế, róc rách và rì rào, chậm rãi mà đều đặn, thô giản mà hiệu quả như vậy.

Người dựng lại ký ức thời gian

Cơn mưa phùn đầu xuân nhẹ phủ xuống tầng cây vú sữa như từng giọt thời gian gõ nhịp vào ký ức. Một mình như vẫn bao năm, lão nông Mai Văn Quýt từng ngày cặm cụi vót từng nan tre, tỉ mỉ cắm cài, tỉ mỉ sơn sửa, cẩn thận cân đo từng chút một những khớp nối, chau chuốt từng sợi cước để tạo hình cho sản phẩm của mình. Với lão nông này, đã ở cái tuổi gần 80 nhưng những nhung nhớ ruộng đồng với bờ xe nước vẫn còn hiển hiện như thuở nào. Cái thuở mà bờ xe nước vẫn luôn là biểu tượng ký ức của người Quảng Ngãi. Bây giờ còn ai làm bờ xe nước ở vùng này nữa không? Không, chẳng còn ai ngoài ông lão ấy, cũng chẳng còn ai ngoài ông lão có thể nắm được hết kỹ thuật dựng bờ xe nước với kích thước lớn và kết nối với nhau để đưa nước từ vùng thấp lên vùng cao được nữa. Và tất nhiên, tất cả những vòng xe nước bằng tre ấy đều được ông lão làm thủ công hoàn toàn bằng tay. Ông Quýt, có lẽ được xem là một trong những người cuối cùng nắm được cách thức chế tạo ra bờ xe nước ở đất này.

Bắt đầu làm bờ xe nước từ năm 16 tuổi, người đàn ông gần bát thập ở Quảng Ngãi muốn dựng lại cả một công trình tưới tiêu đồng ruộng từng một thời góp phần làm ấm no cho người dân vùng đồng quê đôi bờ sông Trà. Bây giờ bên triền sông chẳng còn những bờ xe nước công phu và kỳ vĩ như xưa nữa. Ước muốn của ông lão này vẫn là được thấy những chiếc bánh xe tròn đều bằng tre đều đặn quay bên bờ sông, dù không phải để phục vụ thủy nông cho bà con nữa, mà để nhắc với ký ức về một thời.

Ông Quýt giới thiệu cho khách cách bờ xe nước vận hành.

Ông Quýt giới thiệu cho khách cách bờ xe nước vận hành.

Đôi tay gầy của lão nông Mai Văn Quýt cả một đời đã dựng không biết bao nhiêu bờ xe nước, lớn có, nhỏ có. Những bờ xe nước loại nhỏ thì để trưng bày, những cái lớn hơn thì để dựng nước tưới tiêu. Nhưng trong tâm trí của ông, vẫn luôn đau đáu một điều là phải dựng lại công trình bờ xe nước độc đáo ở bên sông này, vốn là biểu tượng bên dòng sông Trà Khúc khi xưa. Nhiều năm qua, ông đã làm không ít những mô hình bờ xe nước, nhưng chỉ là những sản phẩm mi ni mang tính trưng bày là chính. Mỗi bờ xe mô hình có từ 2 đến 4 bánh xe, tùy theo nhu cầu người sử dụng. Những bờ xe nước ấy, được không ít người đặt mua đưa về phố thị trong sự chau chuốt sớm chiều của người yêu đồng nhớ sông.

Sinh ra trong gia đình có ba đời làm bờ xe nước, trong số 10 người con, ông Quýt là con thứ 6 và chỉ có một mình ông còn giữ nghề của cha truyền lại, lão nghệ nhân già được kế thừa gần như toàn bộ những kỹ thuật của cha ông mình. Những nỗi lo của ông, và sự day dứt nhất của người đôi bờ sông Trà có lẽ là ông Quýt chẳng có nổi một truyền nhân, để lưu giữ lại hết thảy cách làm bờ xe nước này. Thôi thì, như ông Quýt bảo sẽ cố gắng làm tất cả để giữ lại một bờ xe nước, biểu tượng của dòng sông một thời ấy.

Ông Mai Văn Quýt phục dựng mô hình bờ xe nước sông Trà.

Ông Mai Văn Quýt phục dựng mô hình bờ xe nước sông Trà.

Những năm cuối đời, ông đã nghĩ phải dựng được một bờ xe nước hoàn chỉnh, giống như nguyên bản, đặt bên bờ sông như mấy chục năm trước. Như cái cách mà người xứ Quảng xa quê vẫn nhớ những vòng quay mải miết ấp ủ câu chuyện từ thuở ấu thơ. Đi suốt tháng năm đời người vẫn không thể mờ phai những vòng xoay kiên trì, nhẫn nại và mộc mạc như người dân quê chịu khó, chịu thương trong mưa sớm nắng chiều.

Ông Bùi Văn Tiến, Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Quảng Ngãi cho biết, cuối năm 2023, bờ xe nước với 9 bánh xe của ông Quýt hoàn thành với kinh phí hơn 150 triệu đồng, được ông Quýt thực hiện trong nhiều năm được đưa vào TP Hồ Chí Minh để triển lãm trong chương trình “Sắc quê Quảng Ngãi tại TP. Hồ Chí Minh lần I - năm 2024”. Niềm vui của ông Quýt, cũng có lẽ là niềm vui chung của bà con Quảng Ngãi xa quê còn thương nhớ theo ký ức với dòng sông quê nhà với biểu tượng gắn với dòng sông.

Có thể bạn quan tâm

Hun hút giữa mây ngàn

Hun hút giữa mây ngàn

Bám trường lớp ở những nóc heo hút, nhiều thầy cô giáo gần như gởi cả thanh xuân theo cuộc hành trình. Đầu tuần, những người trẻ lầm lụi ôm ba lô ngược núi. Họ như mất hút cho tới cuối tuần, mới có thể ra nơi có sóng điện thoại.

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Sau gần 30 năm đưa vào sử dụng, điểm trường Phú Quý thuộc Trường Tiểu học số 2 Bình Châu (xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) hiện xuống cấp nghiêm trọng, tường bong tróc, nứt toác… chờ sập. Hàng trăm học sinh và giáo viên thấp thỏm, lo âu vừa học vừa run.

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Dành trọn đam mê trong phòng thí nghiệm, chắt chiu trong từng thí nghiệm, TS. Phạm Thanh Tuấn Anh, SN 1992, Phó trưởng phòng Phòng thí nghiệm Vật liệu Kỹ thuật cao, Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG HCM), đã gặt hái nhiều thành tựu trong lĩnh vực công nghệ vật liệu mới.