Thương lắm kơ nia!

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
(GLO)- Cứ như một cô gái đội dù trên đỉnh núi và hóa mộc, hóa thạch ở đó. Từ xa, nhìn nó rất giống một hình nhân và tàng lá kia rõ tựa đang che dù trên đầu. Hình ảnh sống động này dứt khoát là chân dung của một hình tượng. Chắc là hình tượng tâm linh rừng-người-đất-xứ, thoát ra khỏi bản thể thật của một loài cây.                                            
Mỗi sáng, những tia nắng mặt trời đầu ngày chiếu qua đỉnh núi, màu au vàng như kẻ sợi dưới mặt đất và kẻ luôn lên tán dù lá kia của nó. Người con gái đội dù hóa mộc thành một âm bản khi nhìn nó ngược với hướng mặt trời. Như một bức tranh phông vàng đỏ, tối giản và với một nhân vật chính là nó. Bức tranh thật và rực rỡ mà không cần phải vẽ, phải tưởng tượng. Và khi nắng chiều tà về thì cũng thế, chỉ xê dịch đôi chút những sắc màu, khi nhìn ngược từ hướng Đông. Buổi trưa, giữa nắng gắt thì nó là một thỏi xanh lẻ loi in trên nền phông xanh dương trộn trắng phau của mây trời mênh mông. Bóng nó đổ đủ một chấm mát ở ngay chỗ đất nó đứng lên thôi. Cho dù thân nó cao to, nhưng khi lẻ loi giữa bao la đất trời thì thứ gì mà chẳng thành bé bỏng. Ôi cái nắng nhiệt đới núi cao tàn khốc, buổi không còn đại ngàn nguyên sinh, như cứ muốn nuốt chửng thỏi xanh tự nhiên cuối cùng này. Nó như gồng lên để chống chọi, khát sống, mong được tồn tại, muốn “xin cho tôi ý kiến”, cho dù một mình. Sức chịu đựng khủng khiếp. Nhưng thời điểm này, nó là một bức tranh đẫm lệ, đẹp chết lặng trong ánh sáng tràn đầy, xót xa, hiu hắt giữa khắc nghiệt, càng chơi vơi hơn trong phối màu thiên nhiên xanh dương pha trắng tuyết đó. Nó rực rỡ trong nỗi buồn mênh mông. Đạt đến đỉnh cao của sự cô độc.
Là cây rừng, mà phải sống một mình.
 Một cây kơ nia lẻ loi bên sườn núi. Ảnh: N.H.T
Một cây kơ nia lẻ loi bên sườn núi. Ảnh: N.H.T
Ngày mưa, nó ướt sũng giữa trời. Phông trời, màu trời xám xịt và hình dáng nó in vào đó. Sự mờ ảo của nước trời làm nó hòa lút vào trong đó nên con người không còn cảm giác được sự chơi vơi và vẻ cô độc của nó nữa. Mà sự thật thì nó vẫn lẻ loi. Màn mưa núi u tịch đã đánh lừa lớp phủ mặt một mình kia. Nếu có tâm hồn, chắc nó sẽ buồn hơn nữa vào lúc này, tự nó gặm nhấm nỗi buồn mà các loài khác không thể biết. Cảm giác về số phận làm ta đau, đau cho sự “một mình”, đau cho sự hẩm hiu. Có cái gì đó phất phơ, mà cả xô dạt nữa. Cho dẫu nó có kiên cường thì ta vẫn cảm giác tê buốt. Cái cây có thể biết khổ đau hơn cả con người, nhưng chỉ con người mới ồn ào réo rắt tâm cảm ra ngoài trần thế. Cái cây khác con người là không thể đi thăm nhau. Cây một mình càng không biết thăm cây nào. Ta thấy giống loài mình có lỗi với nó. Nhưng nếu con người đều ác hết thì làm sao nó còn đứng đó. Cũng còn những người không ác hoặc không cạn hết lương tâm. Nó đứng đó đã là một ân huệ, ân huệ cuối cùng. Đố ai biết nó sẽ được đứng đó đến trọn đời hay ngày nào đó nó phải “ra đi”. Bức tranh ngày mưa về nó mang màu xám lạnh, hoài vãng âm u.
Lộng nắng, lộng mưa, lộng gió nữa đi, nó vẫn đứng đó với vẻ đẹp nức nở, kiêu hùng và đẹp muôn cực nào đó xa xôi nữa.
*
*     *
Mới hôm nào dải núi đồi điệp trùng kia còn rất nhiều kơ nia. Chen dưới chân đồi, trảng bằng, thung thấp là làng lẻ tẻ rải ra. Ta đã biết nhiều sắc dân Tây Nguyên dùng gỗ kơ nia để làm gối; họ xẻ ra một miếng nhỏ đủ kê đầu. Cái cối và chày giã rau, giã lúa, giã bắp, giã rễ cây làm men rượu cần của họ cũng làm bằng gỗ kơ nia mà. Chao ôi, lại thêm cái màu tím thẫm của lá non kơ nia nữa, mỗi năm 2 lần ra lá, mềm buồn như ký ức của đại ngàn. Bức tranh lúc này thẫm lịm khi nhân vật chính bỗng thay màu áo lá mới trên thân, tươi mà vẫn buồn buồn. Kơ nia lá hình dạng nào thì trái nó hình dạng đó, một dáng bầu dục. Đập đau tay mới lột ra được lớp vỏ dày để ăn được chút cơm trong hạt, ăn tượng trưng như tưởng nhớ tận xa thẳm chút hương vị rừng xưa sót lại. Xưa mùa nắng, người Tây Nguyên đi rẫy, mở cơm mang theo trong gùi ra ăn ở đó, dưới gốc kơ nia. Nó hiện hữu như một chứng nhân của những gì diễn ra trên mặt đất, trên miền quê núi này.
Nay, nếu là rẫy của người mới nhập cư từ phía Bắc vào sẽ không còn bóng dấu nó đâu, nó sẽ được dọn tiễn đi luôn cho mặt phẳng được hình thành. Người ta còn tìm nó ở các cánh rừng còn lại xa khuất hơn ở các lớp núi kia để đốt than nữa kìa. Tốt như than cây kơ nia mà-cứng, bền, lâu tàn. Nên giờ những rừng kơ nia không còn. Trong cuộc marathon khai hoang đó, bỗng một ngày các sắc dân bản địa cũng vào cuộc tranh tìm đất canh tác, tư liệu sản xuất bằng mọi giá; họ cũng phá rừng bừa bãi, ngược lại với tổ tiên họ, bởi núi rừng giờ bỗng người chật đất thưa. Nhưng họ có chủ ý giữ kơ nia lại trên rẫy mình, như một kỷ niệm về rừng.
Những dải núi trọc kia, cho dù thảm thảo mộc không còn thì vẫn cứ gọi là núi. Trong rẫy nương, kơ nia đã ở bên lề của ký ức đại ngàn. Mỗi rẫy một cây. Nó không có đồng loại. Cây cũng thương yêu cây, cần nương tựa vào nhau, vậy nhưng chúng chia lìa từ lâu rồi. Trước một sinh linh, dù là cây, làm sao mà không nghĩ về thân thể và linh hồn, với tư cách một sinh vật, một loài trong thế giới vạn vật, trong càn khôn vũ trụ này.                
Vẽ tranh về nó thì tranh ra rất xinh. Chụp hình về nó thì ảnh ra rất đẹp. Ngắm nhìn nó thì rất thơ. Nhưng nghĩ về nó với tư cách một loài, một sinh vật và cái quyền được sống, được sinh sôi thì... não nùng quá. Nó đứng trên núi mà như đứng trên hoang mạc. Nó lơ lửng trên quê hương của nó, rừng xưa, bản xứ nguyên sinh, nơi mặt đất thân thương-Tây Nguyên. Là cây, nó đâu thể kêu ca. Là cây, nó đâu biết chạy trốn. Mà chạy đi đường nào giờ, khi không còn ngóc ngách nào của núi rừng Tây Nguyên không đẫm nát bóng người, những rẫy, vườn, khu dân cư, xóm, phố. Hoang mạc ngay trên đại ngàn mới đó, thì nó như cây Bao Báp ở sa mạc Sahara bên Phi châu, trong khi nó là loài cần cộng cư chứ không phải loài một mình, loài của rừng mưa nhiệt đới thường xanh, của đất bazan và feralit, chứ không phải loài của cát bỏng khô hạn.
*
*     *
Có những mùa ta đi ngang mà không dám nhìn nó. Sức chịu đựng của ta không thể như kơ nia-loài cây gắn bó thân thiết với người sơn nguyên. Ta phải dựa vào loài ta thì mới hấp thụ được tình yêu cuộc sống và sống được. Ta thương những xóm người mới từ tận Tây Bắc xa xôi lọt vào rừng Tây Nguyên tìm cõi sống; họ lẩy bạn bè kơ nia ra khỏi nó, chỉ còn mỗi nó. Nhưng ta cũng đau cho nó, dẫu đấu tranh sinh tồn là một quy luật, không có nhân nhượng. Những dãy núi từ đó mòn đi vì cơm áo cùng những cơ cầu của con người và tuyệt tình với đa dạng sinh học, sinh thái. Georges Condominas-nhà dân tộc học lừng danh người Pháp-từng buộc mình thành một bộ phận, một công dân ở làng để viết ra khảo cứu đặc biệt về không gian sinh tồn và cộng đồng xã hội kỳ diệu của cuộc sống minh triết, nương theo thiên nhiên để sống thay vì dọn trắng hoang dã trong cuốn “Chúng tôi ăn rừng”. Condominas nếu tái thế thì có khi cũng thơ thẩn như kơ nia thôi, hoặc thành một thi sĩ lang thang ở những đồi núi đó.
Kơ nia đứng đó lặng câm, không khóc, không cười. Làm sao mà khuyên nó đừng nhớ đồng loại nữa...      
 NGUYỄN HÀNG TÌNH     

Có thể bạn quan tâm

Hun hút giữa mây ngàn

Hun hút giữa mây ngàn

Bám trường lớp ở những nóc heo hút, nhiều thầy cô giáo gần như gởi cả thanh xuân theo cuộc hành trình. Đầu tuần, những người trẻ lầm lụi ôm ba lô ngược núi. Họ như mất hút cho tới cuối tuần, mới có thể ra nơi có sóng điện thoại.

Lão nông cả đời bảo tồn cá quý trên dòng Mê Kông

Lão nông cả đời bảo tồn cá quý trên dòng Mê Kông

Sông Mê Kông đang ngày càng cạn kiệt về các loài cá quý hiếm. Ông Bảy Bon - lão nông ở Cần Thơ trên dòng sông Hậu dành gần cả đời sưu tầm và bảo tồn các loài cá quý với hy vọng chúng sẽ không biến mất. Kết hợp du lịch, ông đã tạo nên một điểm đến hấp dẫn mỗi khi khách đến cồn Sơn của TP Cần Thơ.

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Sau gần 30 năm đưa vào sử dụng, điểm trường Phú Quý thuộc Trường Tiểu học số 2 Bình Châu (xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) hiện xuống cấp nghiêm trọng, tường bong tróc, nứt toác… chờ sập. Hàng trăm học sinh và giáo viên thấp thỏm, lo âu vừa học vừa run.

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Dành trọn đam mê trong phòng thí nghiệm, chắt chiu trong từng thí nghiệm, TS. Phạm Thanh Tuấn Anh, SN 1992, Phó trưởng phòng Phòng thí nghiệm Vật liệu Kỹ thuật cao, Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG HCM), đã gặt hái nhiều thành tựu trong lĩnh vực công nghệ vật liệu mới.