Thung lũng mồ côi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Người ta ví hai bản Cát và Trĩa (xã Hướng Sơn, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) là thung lũng mồ côi cũng chẳng ngoa tí nào. Bởi nơi đó gần như biệt lập hẳn với thế giới bên ngoài. Không đường giao thông, không trường học, không trạm y tế; sóng điện thoại di động phải leo lên đỉnh núi cao cả ngàn mét mới có tín hiệu; đường điện cao thế vẫn còn dở dang.... Mỗi khi mưa lũ đến, nơi đây chẳng khác nào ốc đảo lạc lõng giữa rừng sâu.

Giai thoại Cát, Trĩa

Đang bận sửa lại vách nhà sàn để kịp trước mùa mưa lũ sắp tới, già làng Hồ Ta Lê (70 tuổi, bản Trĩa) quay qua chào gọn: “Mừng lắm! Lại có khách ghé thăm bản của già này. Chúc mạnh khỏe”. Rồi già Ta Lê mời khách vào căn nhà sàn cũ của mình và tối hôm đó, chúng tôi được tiếp đãi chẳng khác nào khách quý của bản.

 

Người dân bản Trĩa đã biết trồng lúa nước nhưng do thiếu kỹ thuật nên thường xuyên mất mùa
Người dân bản Trĩa đã biết trồng lúa nước nhưng do thiếu kỹ thuật nên thường xuyên mất mùa.

Già làng Ta Lê bắt chuyện: “Trước kia, ông tổ khai sinh ra bản Trĩa này có tên Hồ Chìa, sống ở đồi 27 thuộc xã Cam Sơn (Cam Lộ, Quảng Trị) trong một gia đình rất nghèo, lại sinh nhiều con. Trồng sắn, bắp trên đồi thì bị đàn khỉ, chuột ăn hết; giáp mùa đói quá phải đào rễ cây ăn qua bữa. Sau đó, Hồ Chìa một mình luồn khắp các khu rừng, liên tục mấy ngày để đi tìm sự sống khác giữa rừng sâu. Đến nơi đây, thấy địa thế bằng phẳng, bao quanh là những vách đá cao vót, dưới chân đá có dòng suối nước chạy quanh khu đất bằng; đặc biệt ở đây có loài trĩa chụt (tiếng Việt nghĩa là nấm) mọc chi chít, trắng cả một khoảnh rừng. Măng rừng cũng nhiều vô kể, không thể đếm được. Thế là Hồ Chìa quay lại đón vợ con vào vùng rừng “vàng”, suối “bạc” này sinh sống”.

Nhờ có nấm và măng quanh năm nên không còn lo cái đói, Hồ Chìa quay lại làng cũ kêu gọi dân bản cùng vào vùng rừng màu mỡ này an cư lạc nghiệp, lập bản, dựng làng. Cứ như thế, biết bao nhiêu cuộc vượt suối, trèo đèo đi tìm sự sống giữa chốn rừng sâu nối tiếp nhau. Để đến hôm nay, xa thẳm nơi đại ngàn, có 2 bản làng rạo rực tiếng trẻ, nhịp chày. Già làng Hồ Ta Lê lý giải thích thêm về tên bản: “Đặt tên bản Trĩa vì có nhiều nấm. Tiếng bản địa gọi nấm là trĩa chụt. Tên Trĩa lấy từ trĩa chụt mà ra, nghĩa là bản nhiều nấm. Hay như bản Cát cũng vậy. Tên Cát có nghĩa là đám cháy lớn. Nghe đâu, bên đó có giai thoại về một vụ cháy trâu, nên gọi tên bản Cát”.

Giai thoại kể lại rằng, ngày trước ở bản Cát có một ngày đại lễ, cả bản cùng nhau sửa soạn để chuẩn bị đón lễ. Họ chung lại làm thịt một con trâu lớn đủ để cả làng ăn tiệc. Nhưng khi đốt lửa thui trâu, do chất quá nhiều củi nên đám cháy càng lúc càng bùng lên và cháy lan sang cả một vạt rừng. Dân làng không thể cứu vãn, đành để con trâu cháy thành tro. Từ đó họ đặt luôn tên cho bản của mình là bản Cát.

Thời mới lập bản giữa rừng già, người bản Cát, bản Trĩa lúc đói chỉ việc lấy nấm, lấy măng về ăn. Khát nước đã có con suối chảy tràn phía sau bản. Thời tiết chuyển lạnh thì lấy vỏ cây rừng phơi khô, giã ra rồi đan thành quần áo, chăn mền... Đêm nghe tiếng thú gầm vang thì đốt ngọn lửa lớn lên, đánh chiêng, chơi đàn ta lư rồi hát vang trên các chạng cây lớn để đuổi thú dữ. Khi thú dữ không còn đe dọa, họ bắt đầu sáng chế ra các công cụ để sinh tồn, như chặt cây lớn để làm cối giã gạo, đẽo cày, cuốc…; lấy tre nứa đan đều để dựng nhà sàn cao, rồi quay về bản cũ mang hạt lúa lên đâm lỗ tra hạt làm mùa.

 

Sinh hoạt của người dân hai bản Cát, Trĩa nơi đại ngàn
Sinh hoạt của người dân hai bản Cát, Trĩa nơi đại ngàn.

Từng là vùng đất chết

Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hai bản Cát và Trĩa trở thành cứ điểm để bộ đội đóng quân. Sau khi không thể lùng ra căn cứ địa của quân cách mạng, giặc Mỹ đã phun rải chất độc tàn phá sự sống nơi đây. Những khoảnh rừng già, nấm, măng… trở thành bình địa, ước vọng sinh tồn của dân bản Cát và bản Trĩa bị đe dọa. Người trẻ đành gạt nước mắt bỏ làng ra đi tìm vùng đất mới; còn người già ở lại vì còn thờ cha, thờ mẹ, ông bà tổ tiên. Họ tìm những hang lớn trên vách đá ở tạm, bền bỉ sống qua ngày chờ sự sống hồi sinh.

Vài năm sau, trên những mảnh rừng khô cháy, loài cỏ tranh bắt đầu đâm chồi, màu xanh giữa đại ngàn dần được tái tạo. Dân bản từ những hang động quay trở về khôi phục lại làng mạc xưa của họ. Từ những đồi cỏ tranh, họ bắt đầu trồng lên những cây công nghiệp như keo tràm, bạch đàn... Cùng với đó, muôn chim thú cũng quay về làm tổ. Chỉ riêng loài nấm từng nuôi bao thế hệ người dân nơi đây đã hoàn toàn biến mất bởi chất độc dioxin.

Sự sống nơi Cát, Trĩa được hồi sinh. Những người trẻ ra đi lánh nạn ngày nào đã quay trở về, cùng nhau góp sức gầy dựng lại cuộc sống nơi rừng sâu. Bản làng lại vang tiếng chày, tiếng chiêng cùng tiếng trẻ.

Biệt lập với thế giới bên ngoài

Trước khi vượt rừng vào hai bản Cát và Trĩa, ông Hồ Văn Luyện, Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc bán trú Hướng Sơn, có khái quát sơ qua vài nét tiêu biểu cho chúng tôi nắm tình hình: “Vào mùa mưa lũ, hai bản Cát và Trĩa không khác nào một vùng đảo lạc giữa rừng. Nước lớn bao quanh, cô lập bản làng với miền xuôi. Mọi hoạt động của người bản gần như ngưng trệ, có khi phải chờ cả tháng sau mới về được miền xuôi để mua những nhu yếu phẩm cần thiết. Trên 100 con em đang học bán trú dưới xuôi, đến mùa mưa lũ phải tự lo cho mình, đùm bọc nhau để tiếp tục học hành. Mọi liên lạc với gia đình đều bị chia cắt”.
- See more at: http://www.sggp.org.vn/phongsudieutra/2016/10/439169/#sthash.Nw0gQZg4.dpuf

Những năm trước, do sống nơi rừng thiêng nước độc nên dịch bệnh sốt rét hoành hành liên tục, người dân cứ tìm đến thầy mo để cúng chữa. Số khác ăn lá cây, con giun đất để qua cơn sốt, tỷ lệ người chết do sốt rét vì thế rất nhiều. Đến năm 2011, bản Cát cử ra một đội y tế của bản. Những thành viên này chịu trách nhiệm đến từng hộ gia đình để tuyên truyền vận động, phát thuốc phòng dịch, nhưng do không có kinh phí và trình độ chuyên môn kém nên không thể ứng phó kịp thời với những ca khó.

Chị Hồ Thị Phương, hộ tá ở bản Cát dẫn chứng: “Mỗi khi bệnh nặng hay sinh đẻ khó là bản phải cử người khiêng về trung tâm xã hoặc huyện điều trị. Có những ca chưa khiêng đi kịp đã sinh dọc đường. Giá như ở đây có trạm y tế được trang bị thuốc men đầy đủ và đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo bài bản thì sẽ không còn tình trạng đẻ đường, chết rừng như thế!”.

Hồ Văn Đàn (27 tuổi, Trưởng bản Trĩa) bày tỏ nguyện vọng: “Hiện mong ước lớn nhất của người dân nơi đây là có tuyến đường bê tông nối từ miền xuôi vào tận bản. Có đường giao thông mới may ra cuộc sống sẽ dần hội nhập với miền xuôi để bớt khốn khó. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng rất cần những lớp tập huấn về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Vì không biết kỹ thuật nên trồng cây gì cũng bị chết gần hết, lúa ngoài đồng năm nào cũng mất mùa, đất đai tuy nhiều lắm nhưng còn bỏ hoang nên đói ăn quanh năm”.

Hơn 40 năm qua, từ ngày đất nước thống nhất, những phố thị đã mọc ken dày khắp mọi miền Tổ quốc. Văn minh cũng đến “gõ cửa” từng nóc nhà sàn nhiều bản làng sau dãy Trường Sơn, nhưng ở vùng đất này còn chịu cảnh “mồ côi” giữa rừng sâu thẳm.

Theo sggp

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null