Thơ ra trận của một người lính "Tàu không số"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Ông là Nguyễn Huy Đăng-con trai của cố Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình Nguyễn Tư Thoan. Với hoàn cảnh xuất thân, đi du học hay tìm một công việc an nhàn có lẽ là điều không khó nhưng ông đã chọn làm người lính “Tàu không số” với hành trang ra trận là những vần thơ. Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Gia Lai Nguyễn Thanh Bình-em trai ông-kể rằng: Mãi đến khi ông mất, người chị dâu thu dọn những di vật của chồng mới thấy cuốn sổ thơ này.
Đó là một cuốn sổ cỡ nhỏ đóng bằng loại giấy kẻ ngang mà học sinh thời trước hay dùng. Nét chữ chân phương, nắn nót bằng mực Cửu Long, cũng là thứ mực thân thuộc với bao thế hệ học sinh miền Bắc. Tính từ bài thơ mở đầu ghi ngày 7-2-1969 cho đến bài cuối-tháng 5-1977, tôi đếm được 100 bài tất cả. Từ một cậu học trò cấp II-III cho đến khi rời quân ngũ, trong khoảng 7 năm giữa bom đạn chiến tranh, giữa bao lần cận kề cái chết mới thấy vẻ đẹp tâm hồn của một “thế hệ vàng”-thế hệ thắng quân thù bằng truyền thống của một dân tộc “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa…”.
 Ông Nguyễn Huy Đăng. Ảnh: N.T
Ông Nguyễn Huy Đăng. Ảnh: N.T
Ông Nguyễn Huy Đăng sinh năm 1952, là con thứ 3 trong gia đình. Học lên cấp II (hệ 10 năm ngày trước ở miền Bắc), ông được đưa vào Trường Nguyễn Văn Trỗi là nơi dành cho con cán bộ cấp cao. Một suất du học nước ngoài hay chí ít là một công việc an nhàn có lẽ chẳng khó, nhưng với cha ông thì con cán bộ cũng phải bình đẳng, không có đặc quyền khi đất nước lâm nguy… Trước Nguyễn Huy Đăng, anh trai ông là Nguyễn Thanh Phong mới 16 tuổi, đang học dở cấp III đã trốn nhà đi bộ đội. Cùng con đường ấy bây giờ là Nguyễn Huy Đăng. Năm 1970, ông vào bộ đội hải quân. Từ năm 1971 đến 1972, là lính “Tàu không số” thuộc Đoàn 125, ông đã cùng đồng đội vận chuyển trót lọt 3 chuyến vũ khí vào Nam. Trở về vào Đại học Quân sự được 2 năm, ông lại theo lệnh tổng động viên lên đường giải phóng miền Nam, có mặt trong trận giải phóng Trường Sa. Sau giải phóng, ông về Bộ Tư lệnh Hải quân công tác một thời gian rồi phục viên với quân hàm Thiếu úy. Ông mất năm 2004 lúc mới 53 tuổi…
“Ta lớn lên giữa vườn hoa cộng sản/Tuổi thanh xuân can đảm tự hào/Gió lộng lòng son phơi phới giữa trời cao/Băng gian khổ ta vào đường cách mạng…”. Có lẽ, thế hệ trẻ ngày nay thật khó hình dung vì sao một thiếu niên mới 16 tuổi đã viết nên những dòng thơ già dặn, cháy bỏng nhiệt huyết như vậy? Chiếm một dung lượng khá lớn trong sổ thơ của ông là những vần thơ cháy bỏng nhiệt huyết, cháy bỏng khát khao được cống hiến cho một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin mãnh liệt vào Đảng, Bác Hồ: “Ta đi giữa mùa xuân tràn ánh sáng/Mang trong lòng dáng vóc của non sông/Tình quê hương tha thiết cháy nồng/Tràn sức sống theo cánh buồm lộng gió…” (Tuổi 17). Tuy nhiên, cũng như bao bạn trẻ mới bước chân vào con đường gian khổ, tâm hồn “tiểu tư sản” của Nguyễn Huy Đăng không khỏi những giây phút yếu lòng. Ông thú nhận mình đã bao lần mơ “những tà áo màu thanh thiên thiếu nữ”, những giờ phút yếu đuối trước thử thách, khó khăn hay lẽ thường tình là nhớ mẹ, nhớ em… Nhưng rồi ông đã nhủ lòng gắng vượt lên tất cả: “Dòng sữa mẹ nuôi nhiều mơ ước/Cho con đi theo bước cha anh/Tình thương yêu gửi gió trong lành/Ru con đi vào đêm trường chiến đấu” (Bài thơ người lính).
Nhưng “lửa thử vàng”, phải trong hoàn cảnh gian nguy nhất, kề cận nhất giữa sự sống và cái chết mới là sự kiểm nghiệm chân xác lòng trung thành lý tưởng của một con người. Với Nguyễn Huy Đăng, đó là những tháng ngày lênh đênh trên “Tàu không số”. Có lẽ khỏi phải nói thêm nỗi hiểm nguy, gian khổ của những chiến sĩ làm nhiệm vụ đặc biệt này. Vậy mà thật lạ, trong thơ tuyệt không thấy ông than phiền nỗi gian nan hay tỏ ra dao động trên những chuyến tàu lẻ loi hàng tháng ròng trên biển cả, giữa sự rình rập của kẻ thù. Với ông, biển lúc nào cũng lung linh huyền diệu; ôm chứa cả một thế giới tâm hồn của quê hương đất nước. Nghe sóng vỗ mạn tàu, ông cảm giác “biển rì rầm như nhịp đập trái tim” và “hồi hộp như người yêu hẹn đến”. Nhiều lúc cảm giác biển với người chiến sĩ là những người bạn tâm giao tri kỷ: “Ta gọi biển tự đáy lòng giục giã/Một nỗi niềm yên ả đọng thành thơ”. Hay: “Ta ra đi có biển hiền yêu dấu/Tình nghĩa người như đất nặng phù sa”...
*
*      *
Quả thật là đọc thơ Nguyễn Huy Đăng, tôi cũng có cảm giác ông không có ý nghĩ mình làm thơ. Không một sự trau chuốt hay làm dáng, thơ ông gần như là nhật ký ghi vội những cảm xúc của mình. Đọc thơ ông do vậy tôi ít bị sự thuyết phục bởi giá trị văn chương mà là sự không cưỡng nổi của một sức hút-ấy là sức hút của một tâm hồn nồng cháy lý tưởng mà vô cùng lãng mạn. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đi qua được 44 năm. Khoảng lùi ấy càng cho ta thấm thía hơn vẻ đẹp tâm hồn của một thế hệ đã ra trận bằng cả trái tim. Và, ta bỗng hiểu sức mạnh nào đã cho dân tộc ta chiến thắng!   
 NGỌC TẤN

Có thể bạn quan tâm

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

(GLO)- Vở diễn Trò chơi của quỷ do Ðoàn ca kịch bài chòi Bình Ðịnh (thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Gia Lai) dàn dựng vừa giành huy chương đồng tại Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân” lần thứ V-năm 2025.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Tôi không phải một dịch giả chuyên nghiệp - mào đầu vậy hoàn toàn không phải để biện hộ cho những sơ suất, sai sót và thô lậu mà bất cứ ai khi chạm tay vào việc dịch nói riêng, việc chữ nghĩa nói chung, dẫu là tay thuận hay tay ngang, đều phải đối mặt và chịu trách nhiệm.

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Để chào đón thời khắc đặc biệt của đất nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ cao cả với vai trò, vị thế là cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ mà người đứng đầu hệ thống Mặt trận đã tin tưởng giao phó; kể từ tháng 7.2025, Báo Đại đoàn kết ra mắt ấn phẩm Tinh hoa Việt bộ mới.
Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
null