Thích ứng thời giám sát nồng độ cồn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Làng nấu rượu Phú Lộc (thôn Phú Lộc, xã Cẩm Vũ, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương) có truyền thống hơn 500 năm, đỉnh điểm có cả nghìn hộ nấu rượu, có hộ bán hàng chục nghìn lít/năm.

Khi thực hiện chủ trương kiểm soát nồng độ cồn và rộng hơn là sự thay đổi xu hướng, định lượng của dân nhậu, xu thế làm ăn, nghề nấu rượu ở Phú Lộc rơi vào tình thế sống còn. Nhưng lạ là, trong cuộc đổi thay theo hướng văn minh đó, dân Phú Lộc uyển chuyển thích ứng, thậm chí ra chiều ủng hộ…

Vang bóng một thời

Cùng rảo bước đi tham quan đền thờ bà Nghi Địch- bà tổ nghề nấu rượu của thôn Phú Lộc, ông Trần Văn Huy, công chức phụ trách nông nghiệp xã Cẩm Vũ chia sẻ, thôn Phú Lộc có hơn 1.200 hộ. Thời kỳ thịnh vượng, làng có 80% hộ làm nghề nấu rượu, nuôi lợn; tức khoảng gần 1.000 hộ nấu rượu.

Ngôi đền nơi thờ bà Nghi Địch tổ nghề nấu rượu Phú Lộc.

Ngôi đền nơi thờ bà Nghi Địch tổ nghề nấu rượu Phú Lộc.

Nhưng do ảnh hưởng của dịch COVID-19, dịch lợn tai xanh, dịch tả lợn châu Phi; và mới đây nhất là việc Nhà nước siết chặt việc kiểm soát nồng độ cồn đối với người điều khiển phương tiện giao thông, rượu không tiêu thụ được nhiều, dẫn đến nhiều người dân đã bỏ nghề. Chính gia đình ông Huy cũng bỏ nghề không nấu rượu hơn một năm nay. Các con của ông vào các nhà máy làm việc, còn vợ trông cháu và chăm chút ruộng vườn.

“Giám sát nồng độ cồn khi tham gia giao thông tác động đến làng nghề truyền thống là khó tránh. Nhân dân không tiếp tục theo nghề cũng không có tác động nhiều đến đời sống vì những người trẻ họ đều đi làm công nhân ở các nhà máy, còn người già thì chăm lo ruộng vườn, nên đời sống nhân dân vẫn ổn định”.

Ông Đào Đức Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Cẩm Vũ

Đi trên đường trục chính của thôn Phú Lộc, ông Huy kể, những năm trước vào những ngày trước và sau Tết Nguyên đán, trên các con đường này luôn nhộn nhịp người đi lại, xe cộ tấp nập ra vào chở gạo, rượu. Nghề nấu rượu trở thành hồn cốt của quê hương. Nhưng giờ đây “Đường làng, ngõ xóm vắng tanh, không còn mùi hương của rượu nếp thoang thoảng được lên men bằng loại men gia truyền của các cụ ngày xưa lưu truyền từ đời này sang đời khác. Sinh kế của người Phú Lộc thay đổi để lại sau lưng những ký ức về một làng nấu rượu gia truyền nức tiếng”, ông Huy bồi hồi.

Chăn nuôi phái sinh từ nấu rượu mang lại thu nhập cho người dân.

Chăn nuôi phái sinh từ nấu rượu mang lại thu nhập cho người dân.

Ông Huy nhớ nằm lòng rượu Phú Lộc được lên men bằng loại men truyền thống của cụ tổ nghề để lại. Men được làm từ gạo xay, phối trộn với 21 loại thảo dược như: quế, hồi, cam thảo, cát cánh, xuyên khung… Nguyên liệu nấu rượu Phú Lộc thường là nếp cái hoa vàng, một giống lúa nếp truyền thống được gieo cấy tại các huyện Kinh Môn, Kim Thành (tỉnh Hải Dương).

Ông Huy cho biết thêm, để được sản phẩm chất lượng, người nấu phải thực hiện quy trình kéo dài khoảng 15 ngày và trải qua nhiều công đoạn. Lúa nếp phơi già, xay trật vỏ, sảy sạch trấu, không giã, mang nấu cơm vừa độ dẻo, cho ra nia, khi nguội xếp vào thúng. Xung quanh thúng lót lá chuối; cứ một lượt cơm lại rắc một lượt men đã tán nhỏ, xếp xong đậy kín bằng bao tải đặt thúng lên trên chậu sành, để vào chỗ kín gió. Khoảng 5-6 ngày, cơm men có mùi thơm, nước chảy xuống chậu chừng nửa lít thì cho vào hũ, đổ thêm 15 lít nước sạch vào ngâm 6 - 7 ngày nữa, rồi mang chưng cất.

Thích ứng

Chúng tôi ghé thăm gia đình ông Vũ Đình Thuần (70 tuổi). Ông là đời thứ 5 làm nghề nấu rượu, nuôi lợn. Ông Thuần chia sẻ, ông được sinh ra và được nghe mẹ ầu ơi bên nồi rượu, ông có biết bao ký ức khó quên trong mấy chục năm làm nghề. Nghề này cũng mang đến cho ông cuộc sống đủ đầy, lo cho 3 người con học tập nay đã trưởng thành, trở thành các bác sỹ đang công tác tại các bệnh viện lớn ở Hà Nội.

Khung cảnh làng nấu rượu truyền thống Phú Lộc vắng tanh ngày sau Tết.

Khung cảnh làng nấu rượu truyền thống Phú Lộc vắng tanh ngày sau Tết.

Trước năm 2019, mỗi tháng, ông nấu hơn 3 nghìn lít rượu và mỗi năm ông cung cấp ra thị trường hơn 20 nghìn lít. Nhưng đến thời điểm hiện nay, vào vụ cao điểm Tết, ông chỉ nấu 1 nghìn lít rượu mỗi tháng. “Nấu rượu hiện nay không mang lại lợi nhuận, mà chỉ duy trì sản xuất để lấy bỗng nuôi lợn. Nếu trời thương, lợn không dịch bệnh, người dân có cuộc sống tốt, có thu nhập. Còn không may, lợn gặp dịch thì trắng tay”, ông Thuần cho hay.

Rời nhà ông Thuần, chúng tôi đến Công ty TNHH rượu Phú Lộc. Vừa gặp anh Hoàng Hữu Vương, chủ doanh nghiệp, cho biết, làng chúng tôi mỗi năm nấu rượu 8 tháng, 4 tháng hè trời nắng nóng dừng sản xuất, nhưng năm nay, tôi cho dừng sản xuất sớm. “Thực hiện chủ trương của Nhà nước trong việc siết chặt nồng độ cồn đối với người tham gia giao thông là nguyên nhân hàng đầu khiến lượng tiêu thụ rượu giảm. Năm 2023, lượng tiêu thụ rượu của công ty giảm 40% và không mở rộng được thị trường. Thậm chí, một số thị trường truyền thống của công ty cũng không tiêu thụ được sản phẩm”, anh Vương cho hay.

Để đảm bảo doanh thu cho doanh nghiệp, năm vừa qua, anh Vương đã chuyển hướng kinh doanh. “Xu hướng thị trường, tiêu thụ rượu tiếp tục giảm, nên doanh nghiệp cần tìm ra hướng đi mới để bù đắp doanh thu, phát triển doanh nghiệp và duy trì nghề cha ông để lại. Nếu để tổ nghề thất truyền thì thế hệ sau sẽ có lỗi với tổ nghề”, anh Vương chia sẻ.

Anh Vương cũng cho hay, việc cấm người điều khiển phương tiện giao thông sử dụng bia rượu là rất tốt, rất văn minh, tiến bộ. Theo báo cáo của Chính phủ, tỷ lệ tai nạn giao thông do sử dụng rượu bia giảm trong Tết Nguyên đán Giáp Thìn vừa qua đó là điều đáng vui mừng. Đặc biệt, ngay chính dân làng Phú Lộc không phải chứng kiến người thân sử dụng rượu bia tham gia giao thông dẫn đến tai nạn; hàng xóm, láng giềng gây gổ đánh nhau để lại hậu quả thương tâm.

Theo những người dân của thôn Phú Lộc, việc linh hoạt chuyển đổi sinh kế là tất yếu. Ngoài ra, cùng với việc nhiều nhà máy khu công nghiệp được mở ra, thanh niên vào các nhà máy làm việc là hướng đi thích ứng, bền vững phù hợp với tình hình hiện nay.

Có thể bạn quan tâm

Nhân chứng đường số 7

Nhân chứng đường số 7

Đã 50 năm sau cuộc truy kích trên đường số 7 (nay là quốc lộ 25), nhưng những cựu binh vẫn hào hùng kể về câu chuyện một thời kiên cường, sẵn sàng đem cả tính mạng dâng cho Tổ quốc.

Xanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối: Vươn mình trong kỷ nguyên mới

(GLO)- 50 năm sau ngày giải phóng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vùng đất “nóc nhà” của Đông Dương chuyển mình mạnh mẽ. Bước vào giai đoạn mới, vùng Tây Nguyên đang đứng trước vận hội mới, phát huy lợi thế vươn lên cùng đất nước.

Các dự án triển khai dang dở, kéo dài (trong ảnh là đoạn đường cụt giữa TP. Gia Nghĩa do vướng mặt bằng) làm lãng phí nguồn lực đầu tư công

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 4: Gia Lai ngày ấy, bây giờ...

(GLO)- Sau ngày giải phóng năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai đã cùng chung sức, kiến thiết lại quê hương từ đống hoang tàn của chiến tranh. Đến nay Gia Lai đã vươn mình phát triển mạnh mẽ, từ đô thị đến nông thôn khoác lên mình màu áo khang trang. 

Lối về nẻo thiện

Lối về nẻo thiện

Nơi ấy, những con người lầm lỗi bắt đầu với từng con chữ dưới sự dìu dắt của những người thầy mang sắc phục công an. Lớp học đặc biệt còn nhen nhóm ý chí hoàn lương, mở thêm một cánh cửa ra thế giới bên ngoài.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 7: Ngày giải phóng qua lời kể của những người tham gia chiến đấu

Vào những ngày tháng Tư lịch sử, không khí tại TP Hồ Chí Minh náo nhiệt hơn, nhất là khi những tiêm kích Su và trực thăng của Quân chủng Phòng không - Không quân Việt Nam bay tập luyện trên bầu trời thành phố, chuẩn bị cho chương trình kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam (30/4/1975 - 30/4/2025).

Xanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2

E-magazineXanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2: Buôn Ma Thuột từ hoang phế vươn lên thủ phủ Tây Nguyên

(GLO)- Nếu chiến thắng Đak Tô-Tân Cảnh ( năm 1972) xoay chuyển cục diện chiến trường Tây Nguyên thì chiến thắng Buôn Ma Thuột đánh sập “tử huyệt” của địch, mở ra Chiến dịch Hồ Chí Minh để Bắc-Nam sum họp một nhà. Từ một thị xã hoang phế, Buôn Ma Thuột ngày nay xứng đáng là thủ phủ Tây Nguyên

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Từ bao đời nay, với người dân trên đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), mỗi khi có người thân gặp nạn ngoài biển mà không tìm thấy xác, gia đình họ sẽ tìm đến “pháp sư” nhờ nặn một “hình nhân thế mạng” bằng đất sét, thực hiện nghi lễ chiêu hồn, nhập cốt rồi mang đi chôn như người quá cố.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 5: Chuyện về người chiến sĩ nhiều lần cảm tử, góp công giải phóng miền Nam

Phải hẹn rất nhiều lần, tôi mới gặp được người cựu chiến binh, Đại uý Nguyễn Đức Trọng (SN 1956, quê quán xã Long Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, người góp công cùng đồng đội tham gia giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 4: 'Địch đánh núi Dinh thành vôi, các đồng chí sẽ thành tượng đá'

Khi ấy, có lúc nguy nan, đồng chí Phó Chính ủy Trung đoàn 812, Đại tá Nguyễn Văn Tý động viên chúng tôi: Bọn địch đánh núi Dinh thành vôi, các đồng chí sẽ thành tượng đá. Dù sống hay chết, chúng ta đều là những anh hùng của dân tộc này!.., ông Nguyễn Công Binh nhớ lại.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 1: Chiến thắng Đức Lập trong ký ức của một cựu binh

30/4 năm nay đánh dấu mốc chặng đường 50 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà. Để có được niềm hạnh phúc cho ngày thống nhất ấy, không biết bao nhiêu công sức, máu xương của các thế hệ cha anh đã hy sinh vì Tổ quốc.

Về Đất Tổ nghe chuyện cây nghìn năm tuổi - Bài 2: Những đại lão mộc bên dòng sông Bứa

Về Đất Tổ nghe chuyện cây nghìn năm tuổi - Bài 2: Những đại lão mộc bên dòng sông Bứa

Đứng sừng sững bên dòng sông Bứa (đoạn qua Khu 4, xã Quang Húc, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ), cây thị cổ được công nhận cây di sản Việt Nam có tuổi đời ước tính hơn 1.100 năm vẫn xanh tươi, tỏa bóng mát. Hàng năm, “cụ” thị vẫn ra hoa trái lan tỏa mùi hương nồng nàn.