Thầy giáo chiếu phim bãi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Chuyện tôi kể dưới đây diễn ra vào những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Bấy giờ, tôi đang công tác tại xã Ia Dêr, huyện Ia Grai. Là giáo viên nhưng đã có lúc chúng tôi phải kiêm thêm công việc chiếu phim phục vụ người dân trong xã. Chỉ duy trì trong 2 năm học và mỗi tháng đôi lần, trừ những tháng hè, song các đêm chiếu phim của chúng tôi đã để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng người dân địa phương.
Xã Ia Dêr nằm ven TP. Pleiku, gần đến mức người dân trong xã ra phố gần hơn lên thị trấn huyện. Vậy là bao nhiêu nông sản thuộc hàng cây nhà lá vườn từ rau xanh cho đến trái cây rồi gà, vịt, thậm chí ngày trước có người đi rẫy bắt được con nhím, con dúi… cũng đều mang ra cung ứng cho thành phố. Tuy đời sống của người dân trong xã lúc này còn khó khăn nhưng đối với sự học của con em, bà con rất quan tâm. Không gia đình nào buộc con phải nghỉ học, mặc dù nhà nào cũng rất cần lao động bởi rẫy xa làng, hầu hết đều nằm trên khu vực Ia Châm và Ia Hrung cách đó hàng chục cây số. Sáng sáng, từng đoàn xe bò từ các làng Klă, Blang, Breng, Jut… nối đuôi nhau lên đường, xế chiều lộc cộc về, trên xe chất đầy củi. Lúc này điện sinh hoạt chưa có nên phần lớn người dân đều tranh thủ ăn cơm chiều trước khi trời tối, đèn dầu dành cho việc học của con em.
Ảnh minh họa: Internet
Một buổi chiếu phim bãi. (Ảnh Internet)
Tiếng là gần đô thị song “món ăn tinh thần” tối thiểu là nhu cầu xem phim nơi đây cũng thiếu thốn không kém gì vật chất, ít khi bà con được xem. Đội điện ảnh xung kích của huyện ưu tiên các xã vùng sâu, vùng xa, mà nếu có quay vòng thì địa bàn huyện rất rộng, một năm may lắm mới được xem phim một hai lần, thường là phim màn ảnh rộng, chiếu ở bãi, có người thuyết minh.
Năm học 1988-1989, tôi công tác tại Trường Phổ thông cơ sở xã Ia Dêr. Đây là trường điểm về giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh lúc bấy giờ. Xin được nói thêm một chút về tên trường phổ thông cơ sở. Mô hình này chỉ có vào những năm cuối thập niên 70 và thập niên 80 của thế kỷ trước, bởi trong một nhà trường có đủ 3 cấp: mẫu giáo, cấp I và cấp II (chưa gọi là tiểu học và THCS). Ngày ấy, vì là trường điểm của tỉnh nên nhà trường được trang bị khá đầy đủ, phòng học kiên cố, có cả thư viện, các phòng chức năng và ti vi 45 inch.
Năm học đó, nhà trường được ngành Giáo dục và Đào tạo cấp cho 1 máy điện của Liên Xô trong chương trình hợp tác giữa 2 nước. Máy rất lớn, chiếm cả một góc thư viện. Hiểu được nguyện vọng của bà con trong xã, được sự đồng tình của chính quyền địa phương cùng Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, Ban Giám hiệu nhà trường họp giáo viên và đi đến thống nhất: Hàng tháng sẽ tổ chức chiếu phim 1 đến 2 lần cho dân xem. Nơi chiếu là sân cụm trường chính ở làng Breng 2. Máy điện và ti vi nhà trường đã có sẵn, chỉ cần ra Pleiku thuê đầu video và băng hình về.
Cứ tới đêm chiếu phim, nhà trường lại nhờ vài cô giáo đi chợ nấu cơm chiều cho “tổ chiếu phim”. Vài lát cá kho, ít thịt heo, rau xanh nhưng với chúng tôi ngày ấy đó là những món ngon tuyệt trần. Ban Giám hiệu phân công 2 giáo viên là Nguyễn Đình Thi và Lê Đình Ban phụ trách máy điện, ánh sáng; 2 cô giáo Lê Thị Mai và Trần Thị Tú bán vé, tất nhiên là giá cũng rất tượng trưng; các giáo viên nam khác như: Nguyễn Ngọc Thanh, Rơchăm Tul, Phan Phước Hưng, Puih Nheng thay phiên nhau gác cổng, soát vé. Hiệu trưởng Đặng Quang Vinh lo ti vi và đầu video. Tôi thì chạy vòng ngoài… Ngày ấy, chúng tôi cũng rất cẩn thận, luôn chọn những bộ phim có nội dung tốt để chiếu.
Mới chừng hơn 6 giờ tối, người dân từ các làng đã lục tục đến trước cổng trường. Họ địu con, dắt theo con nhỏ. Có chuyện vui là một vài người bế con theo năn nỉ vào sân để: “Cho con mình xem, chứ mình không xem!”. Hoặc bác hàng xóm gần trường nhắc: “Hồi chiều, mình mới cho cô Mai mấy cái củ mì mà!”. Tất nhiên là sau đó không ai lại nỡ để họ đứng ngoài.
Máy điện nổ, đèn bật sáng cả một khoảng sân rộng và con đường làng phía trước trường. Người dân lũ lượt kéo đến, sân trường đông kín. 2 chiếc loa phóng thanh treo trên nóc phòng học cũng “A lô 1-2-3-4, mời bà con các làng về sân trường làng Breng 2 xem phim”… Sau lời giới thiệu nội dung, chúng tôi bắt đầu chiếu phim. Màn hình khá nhỏ nhưng không sao. Thôi thì đủ cung bậc và giai điệu âm thanh của khán giả hòa nhập vào các tình huống trong phim. Có lẽ, những ai đã từng xem phim video ngày ấy chắc không quên được cảm giác thích thú khi xem phim màu, người và cảnh vật sống động không như phim trắng đen trước kia. Thêm một chi tiết vui vui nữa là vì sợ đầu video nóng nên phải đặt một chiếc quạt thổi gió vào máy, băng hình thì thỉnh thoảng lại nghẽn nghe tiếng nói của nhân vật cứ nheo nhéo.
Cho đến hơn 23 giờ, sau khi dọn dẹp các thứ đâu vào đó, chúng tôi mới trở về nhà. Tất nhiên là trước đó cũng quyết toán công khai: tiền mua xăng chạy máy điện, tiền thuê đầu video và băng hình, tiền gạo và thức ăn cho bữa cơm chiều, còn dư chút ít mới sung vào quỹ hoạt động chung của trường. Nhọc nhằn nhưng vui, hôm nào chưa kịp chiếu thì bà con đã đến trường hỏi: “Ơ, thầy Vinh, thầy Phong chưa chiếu phim à?”.
Sau năm học 1989-1990, anh Đặng Quang Vinh chuyển sang huyện mới Chư Pah, tôi chuyển công tác về Báo Gia Lai, một số giáo viên được điều đi các trường khác. Xã Ia Dêr cũng có nhiều đổi thay. Xã đã có điện lưới quốc gia, tất cả đường làng đều được trải nhựa hoặc bê tông. Ti vi thì nhà ai cũng có. Sự học cũng rất phát triển. Toàn xã có 1 trường mẫu giáo, 2 trường tiểu học, 1 trường THCS. Có dịp gặp các thầy-cô giáo cũ, nhiều người dân còn nhắc: Còn nhớ hồi trường mình chiếu phim không? Vui thiệt!
 THANH PHONG

Có thể bạn quan tâm

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

(GLO)- Vở diễn Trò chơi của quỷ do Ðoàn ca kịch bài chòi Bình Ðịnh (thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Gia Lai) dàn dựng vừa giành huy chương đồng tại Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân” lần thứ V-năm 2025.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Tôi không phải một dịch giả chuyên nghiệp - mào đầu vậy hoàn toàn không phải để biện hộ cho những sơ suất, sai sót và thô lậu mà bất cứ ai khi chạm tay vào việc dịch nói riêng, việc chữ nghĩa nói chung, dẫu là tay thuận hay tay ngang, đều phải đối mặt và chịu trách nhiệm.

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Để chào đón thời khắc đặc biệt của đất nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ cao cả với vai trò, vị thế là cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ mà người đứng đầu hệ thống Mặt trận đã tin tưởng giao phó; kể từ tháng 7.2025, Báo Đại đoàn kết ra mắt ấn phẩm Tinh hoa Việt bộ mới.
Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
null