KỶ NIỆM 55 NĂM CHIẾN THẮNG TRUÔNG BỒN (31/10/1968 – 31/10/2023):

Thanh xuân gửi lại những cung đường…

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Sáng 30/12/1968, quả bom đột ngột phát nổ khi kỹ sư Hoàng Kim Giao cùng đồng đội đang cố gắng phá hủy nó. Tiếng nổ vừa dứt, sức công phá khủng khiếp, khói bụi mù mịt. Thân xác anh và đồng đội tan vào đất Mẹ…

“Khắc tinh” của bom từ trường

Chỉ tay về phía khoảng đồi xanh, ông Phan Trọng Lộc, Giám đốc Ban Quản lý Khu di tích lịch sử Truông Bồn (xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, Nghệ An) nói: “Đó là mộ liệt sĩ, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Hoàng Kim Giao. Ngôi mộ bên cạnh hố bom, cách khu di tích khoảng 1km. Theo các nhân chứng kể lại, quả bom phát nổ khi anh Giao cùng đồng đội Lương Văn Tín (mới 18 tuổi, quê Thái Bình) đang cố gắng phá một quả bom từ trường, sau khi đã vô hiệu hóa được nhiều quả bom. Tiếng nổ long trời lở đất, xương thịt của hai anh hòa tan vào đất”.

Nửa cuối năm 1968, không quân Mỹ đánh phá ác liệt khu IV - nơi có vị trí hết sức quan trọng trong việc trung chuyển đạn dược, vũ khí, lương thực từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến lớn miền Nam. Trước yêu cầu của cuộc chiến, ngày 29/9, Viện Kỹ thuật quân sự cử một đoàn công tác do Thiếu úy, kỹ sư Hoàng Kim Giao (SN 1941, quê Hải Phòng) làm trưởng đoàn vào nghiên cứu cách phá bom từ trường, đảm bảo thông suốt các tuyến giao thông huyết mạch này.

Ngôi mộ của liệt sĩ Hoàng Kim Giao và liệt sĩ Lương Văn Tín

Ngôi mộ của liệt sĩ Hoàng Kim Giao và liệt sĩ Lương Văn Tín

Cuối năm 1968, đoàn công tác của Viện kỹ thuật quân sự rời Khu 4, quay trở lại Hà Nội sau khi thu thập được nhiều khí tài để phục vụ nghiên cứu. Ngày 29/12/1968, trên đường hành quân ngược ra Bắc, về đến xã Nam Hưng (huyện Nam Đàn, Nghệ An), đoàn công tác được nhờ giúp phá quả bom MK36, chứa 300 kg thuốc nổ đang án ngữ tại khu vực khe Diêm, cạnh tuyến đường 15A. Sáng 30/12, quả bom đột ngột phát nổ khi kỹ sư Hoàng Kim Giao và chiến sỹ lái xe Lương Văn Tín đang cố gắng phá hủy nó. Ngôi mộ chung của hai người lính quả cảm được lập ngay bên cạnh hố bom. Chính giữa mộ phần là dòng chữ tạc vào đá: “Thân xác anh đã tan vào đất Mẹ/ Tâm hồn anh còn mãi với quê hương”.

Những cánh thư gửi từ tuyến lửa

Trong không gian trưng bày những hình ảnh, kỷ vật của Anh hùng, liệt sĩ Hoàng Kim Giao tại Khu di tích lịch sử Truông Bồn có gần 100 bức thư anh gửi cho người thân. Mỗi lá thư đều chất chứa những xúc cảm riêng, vừa tái hiện cuộc chiến tranh khốc liệt, đau thương, vừa bày tỏ quan niệm sống với những hoài bão, lý tưởng của tuổi trẻ. “Khi biết gia đình liệt sĩ Hoàng Kim Giao có nguyện vọng tặng những bức thư anh gửi về, tôi đã liên hệ và trực tiếp ra Hải Phòng để thuyết phục tặng lại Khu di tích và được gia đình đồng ý. Mặc dù liệt sĩ Hoàng Kim Giao có thời gian rất ngắn thực hiện nhiệm vụ trên tuyến đường 15A nhưng thân thể anh, linh hồn anh đã hòa tan trên mảnh đất này. Đối với Ban Quản lý Khu di tích, những lá thư và hiện vật của liệt sĩ Hoàng Kim Giao thực sự là báu vật”, ông Phan Trọng Lộc chia sẻ.

Liệt sĩ Hoàng Kim Giao sinh ngày 25/12/1941 tại quận Đồ Sơn, Hải Phòng. Anh là một cán bộ khoa học trẻ có 2 bằng đại học, thông thạo 4 ngoại ngữ, công tác tại Cục Nghiên cứu Kỹ thuật, thuộc Tổng cục Hậu cần (Bộ Quốc phòng). Tháng 9/1968, thay vì đi học tại Liên Xô, thiếu úy Hoàng Kim Giao đã xung phong nhận nhiệm vụ Trưởng đoàn công tác vào tuyến lửa Khu 4 để huấn luyện và trực tiếp phá dỡ bom.

Dứt lời, ông Lộc lấy cho chúng tôi xem những bức thư của liệt sĩ Hoàng Kim Giao. Những bức thư dày đặc chữ, sau hơn 50 năm nhuốm màu thời gian, nhiều nét đã nhòe mờ. Trong thư thấm đẫm tình thương mến gửi em gái, bố mẹ ở quê nhà và tình cảm nồng nàn với người vợ trẻ. Chàng trai Hoàng Kim Giao có một mối tình đẹp với cô hàng xóm Nguyễn Thị Lan. Tình yêu ấy đơm hoa bằng một đám cưới giản dị nhưng chứa chan hạnh phúc. Cưới nhau được một thời gian ngắn, anh từ biệt vợ để ra chiến trận. Những cánh thư đã nối dài tình yêu của họ, hòa trong tình yêu đất nước. “Lan ơi! Trước kia anh đã nói với em và đến bây giờ anh vẫn nhắc lại lần nữa những điều mà trước kia ta đã hứa hẹn với nhau trong buổi đầu gặp gỡ. Anh quan niệm hạnh phúc của chúng ta sẽ to lớn, vững chắc nhất khi chúng ta đóng góp được nhiều nhất sức lực cho cách mạng. Hạnh phúc lớn lao đó sẽ bảo đảm hạnh phúc riêng tư của chúng ta…”.

Ông Phan Trọng Lộc – Giám đốc Khu di tích lịch sử Quốc gia Truông Bồn lần giở những cánh thư của liệt sĩ Hoàng Kim Giao

Ông Phan Trọng Lộc – Giám đốc Khu di tích lịch sử Quốc gia Truông Bồn lần giở những cánh thư của liệt sĩ Hoàng Kim Giao

Những cánh thư của liệt sĩ Hoàng Kim Giao

Những cánh thư của liệt sĩ Hoàng Kim Giao

Trong bức thư đề ngày 14/9/1967, anh Hoàng Kim Giao viết: “... Ngày đêm mong tin em, càng xa em càng thấy nhớ thương em. Anh tin rằng dù xa nhau rất lâu chúng ta cũng không để mất mát gì. Ngược lại, tình cảm yêu thương của chúng ta sẽ lớn lên theo ngày tháng và ngày sum họp với tình yêu đã được ngày tháng tôi luyện. Chúng ta sẽ bù đắp lại được tất cả, phải không em? Anh nghĩ nhiều đến ngày sum họp, những đêm khuya anh chợt rùng mình thấy ớn lạnh sống lưng. Khi đó, ý nghĩ duy nhất để sưởi nóng trái tim anh là tình yêu quê hương, gia đình và em... Đừng buồn và đừng khóc em nhé. Lúc nào anh cũng ở bên em. Yêu thương em nhiều, rất nhớ em. Hẹn em ngày trở về!”.

Công trình “Nghiên cứu chống phá thủy lôi từ tính và bom từ trường đảm bảo giao thông những năm 1967-1972” của kỹ sư Hoàng Kim Giao và đồng đội được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật đợt 1, năm 1996.

Bức thư đề ngày 10/11/1968 được xem là lá thư cuối cùng Thiếu úy Hoàng Kim Giao viết trước khi hi sinh, anh cho biết đang ở Khu IV - nơi cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đang diễn ra hết sức ác liệt. “Ở đây có những quãng chỉ 2km mà địch đã trút xuống 5.000 quả bom! Ở đây có những đội thanh niên xung phong cùng với mặt đường phải chịu từng ấy bom đạn và trong đội ngũ kiên cường đó những chiến sĩ phá bom là những người được yêu quý nhất. Có những lúc chúng con phải phá bom trên sông, trước mặt bao cảnh thương vong. Có những lúc chúng con phải phá bom mở đường ở các trọng điểm đánh phá trên bộ, dưới làn bom đạn dày đặc của máy bay giặc Mỹ”.

Trong một khoảnh khắc nào đó, dường như người lính đã dự cảm được cái chết: “... Như mọi người, con cũng nghĩ tới chuyện sống chết. Con nghĩ nếu con hy sinh thì trước mắt sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, không đầy đủ trách nhiệm với các đồng chí cùng đi… Những lúc đứng giữa cảnh chết chóc hoang tàn đó, con nghĩ nhiều đến hạnh phúc gia đình, nghĩ tới ngày sum họp, nghĩ tới những ngày hòa bình và con nghĩ ước mơ ngày về gặp mặt cậu mợ (bố mẹ) và các em con. Con luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ để Tết có thể về nhà với gia đình, ngày ấy nhất định sẽ tới. Con mong cậu mợ được khỏe mạnh, đừng lo lắng nhiều cho con. Con sẽ về, chỉ sớm hay muộn mà thôi”.

Và như biết bao người lính khác, người lính trẻ Hoàng Kim Giao đã không trở về. Anh đã ngã xuống cho giấc mơ hòa bình, độc lập, thống nhất non sông.

Có thể bạn quan tâm

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

null