Tặng vật của những dòng sông: Làng 'ăn tới, mần lui' bên 3 dòng sông cái

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Các loài chắt chắt, con hến… bé nhỏ nhưng trở thành tặng vật của những dòng sông lớn miền Trung như sông Gianh, sông Thạch Hãn , sông Hương. Chúng mang cơm no áo mặc về cho dân đôi bờ và biến những ngôi làng này thành 'làng ăn tới, mần lui'.
“Ăn tới, mần lui” mô phỏng cách đánh bắt và ăn hến. Vì muốn ăn con hến thì người ta phải dùng bánh đa (có nơi gọi là bánh tráng) để xúc tới, còn động tác cào hến thủ công thì người làm thường phải đi giật lùi…
Làng hến nức tiếng
Làng Mai Xá, thuộc xã Gio Mai (H.Gio Linh, Quảng Trị) nằm bên bờ sông Thạch Hãn nổi tiếng là một ngôi làng có nhiều phong cảnh đẹp, nhiều người học hành đỗ đạt. Nơi đây cũng nổi tiếng vì có nghề làm chắt chắt, người dân quen gọi là con hến.
Ngày nay, thay vì cào hến thủ công, người ta chủ yếu cào hến bằng đò máy. Từ sáng sớm, có khoảng hơn 20 chủ đò ở Mai Xá ra bến sông Thạch Hãn để ngược xuôi trên dòng sông này đánh bắt hến. Phạm vi mà họ di chuyển dài đến trên dưới 13 km, từ làng Mai Xá lên tận cầu Đuồi (H.Cam Lộ). Thời gian làm việc thường kéo dài từ 6 giờ sáng đến quá 12 giờ trưa.
Ông Đặng Văn Quốc, một người có kinh nghiệm hơn 20 năm cào hến ở làng Mai Xá, cho biết trung bình mỗi ngày ông cào được khoảng chừng 40 - 50 kg hến, tương đương 7 xô, mỗi xô bán được khoảng 100.000 đồng. Trước khi bán cho thương lái, hến phải được đãi sạch rác rưởi, bùn đất. Ấy vậy mà ông Quốc đủ sức nuôi 4 con ăn học từ nghề cào hến, toàn học ở những trường đại học danh giá.
 
Cào chắt chắt trên sông Gianh, công việc mang lại thu nhập chính cho bà con sinh sống dọc đôi bờ sông. Ảnh: Bá Cường
Cào chắt chắt trên sông Gianh, công việc mang lại thu nhập chính cho bà con sinh sống dọc đôi bờ sông. Ảnh: Bá Cường
Cào được con hến dưới sông đã khó, lấy con hến ra khỏi vỏ cũng không dễ. Theo những người chuyên nấu hến ở Mai Xá, hến tươi sau khi được mang từ dưới sông lên phải qua mấy công đoạn mới ra được con hến thơm tho, trắng trẻo: ngâm vài giờ trước khi nấu nước sôi để chờ hến mở miệng, tách thịt ra khỏi phần vỏ.
Hến thành phẩm cùng với nước luộc cũng sẽ theo chân các tiểu thương đến bán tại các chợ lớn nhỏ ở Quảng Trị, hoặc sẽ “ở lại” Mai Xá để tạo nên các món ăn ngon nức tiếng, gồm hến xào, bún hến khô, bún hến nước. Ngày nay, dọc đường xuyên Á qua làng Mai Xá, có hơn chục quán chuyên bán hến. Cũng dễ hiểu khi năm 2017, bún hến Mai Xá thậm chí còn lọt top 100 món ăn đặc sản tiêu biểu của Việt Nam do Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập.
Sản vật từ đáy sông Gianh
Từ thượng nguồn trên đỉnh núi Cô Pi thuộc dãy Trường Sơn hùng vĩ, sông Gianh chảy dài qua 5 địa phương lớn của tỉnh Quảng Bình, lần lượt băng qua Minh Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Bố Trạch và Ba Đồn trước khi đổ ra biển Đông. Dòng Gianh từ lâu đã trở thành biểu tượng tinh thần của người Quảng Bình và hàng vạn người dân sống dọc theo bờ sông vẫn ngày ngày bám víu, kiếm sống từ nguồn tài nguyên mà con sông này ban tặng.
 
Những con đò chở ăm ắp hến cập bờ sông ở làng Mai Xá (xã Gio Mai, H.Gio Linh, Quảng Trị). Ảnh: Nguyễn Phúc
Những con đò chở ăm ắp hến cập bờ sông ở làng Mai Xá (xã Gio Mai, H.Gio Linh, Quảng Trị). Ảnh: Nguyễn Phúc
Giữa hàng chục sản vật khai thác được trên dòng Gianh, không thể quên chắt chắt (loài sinh vật nhuyễn thể thuộc lớp hai mảnh vỏ, khá giống với hến nhưng có kích thước nhỏ hơn), loài đặc sản của vùng sông nước Quảng Bình. Nghề cào chắt chắt hình thành từ lâu, tập trung tại khu vực giáp giữa H.Tuyên Hóa và H.Quảng Trạch. Ở đây, cào chắt chắt cũng là công việc kiếm thu nhập chính của bà con.
Chị Lê Thị Hồng (ở xã Phù Hóa, H.Quảng Trạch) mới 39 tuổi nhưng đã có gần 30 năm gắn bó với nghề sông nước. Gia đình chị theo nghề từ đời ông nội. “Từ lúc 10 tuổi tôi đã được bố dẫn theo ra sông cào chắt chắt, đây là nghề kiếm được thu nhập chính của nhiều bà con trong xã. Bản thân tôi cùng 3 người chị em khác cũng lớn lên nhờ loài vật bé nhỏ này”, chị Hồng chia sẻ.
Theo chị, nghề cào chắt chắt hiện nay chỉ phổ biến tại xã Văn Hóa (H.Tuyên Hóa) và các xã Cảnh Hóa, Phù Hóa (H.Quảng Trạch). Công việc của bà con thường bắt đầu từ lúc 4 giờ sáng, kéo dài cho đến 12 giờ trưa, lúc nước lên cao. Trong khoảng thời gian này, họ vừa cào chắt chắt vừa sàng sẩy để loại bỏ sỏi đá.
“Thường vớt lên 5 kg thì hết 2 kg là sỏi đá, bùn đất. Công đoạn khó khăn nhất chính là lúc cào, bởi trọng lượng của bùn đất, sỏi đá cùng với sức nước rất nặng. Ai không cẩn thận sẽ dễ bị chao thuyền, ngã xuống nước”, chị Hồng nói.
Chắt chắt sông Gianh có vị ngọt, dai và thơm khi được chế biến. Trời hè nắng gắt, chỉ cần một bát canh chắt chắt nấu với rau khoai, rau muống thì thích thú vô cùng, món ăn giản dị nhưng lại đậm đà hương vị vùng quê. Cũng chính vì thế, chắt chắt ở đây luôn được các tiểu thương từ TT.Đồng Lê (H.Tuyên Hóa), TX.Ba Đồn (H.Quảng Trạch) và nhiều nơi khác đến đặt hàng với giá 10.000 đồng/kg, nếu tách vỏ thì giá 100.000 đồng/kg.
 
Việc đãi, tách vỏ hến là chuỗi công việc tốn thời giờ. Ảnh: Nguyễn Phúc
Việc đãi, tách vỏ hến là chuỗi công việc tốn thời giờ. Ảnh: Nguyễn Phúc
“Vương quốc hến” xứ Huế
Trên mảnh đất cố đô có một hòn đảo lọt giữa dòng Hương thơ mộng với cái thân thương: cồn Hến. Xứ cồn này đã dõi theo bao thăng trầm của vương triều Huế và nay nổi tiếng với món cơm hến trứ danh. Từ cầu Tràng Tiền, phóng tầm mắt về phía đông sẽ thấy cồn Hến, hòn đảo nhỏ nổi lên giữa dòng Hương, tựa như một viên ngọc xanh biếc giữa ngã ba nước. Đi sâu vào làng, thấy những nếp nhà san sát, nơi có các mệ các o vẫn tần tảo đãi hến để mưu sinh.
Với người dân ốc đảo này, con hến đã nuôi lớn bao thế hệ. Theo các bậc cao niên trong làng, xứ cồn xưa kia nằm giữa hai bờ Gia Hội và Vĩ Dạ nên tôm cá trù phú, trong đó “họ” nhà hến sinh sôi nhiều vô kể. Thời chúa Nguyễn, một người đàn ông tên Huỳnh Tương đã đến đây dựng chòi để làm nghề cào hến, từ đó nhiều người kéo nhau về xứ cồn mưu sinh bằng nghề lênh đênh sông nước này.
Bao đời gắn bó với con hến, bà Nguyễn Thị Trẹt (73 tuổi) bồi hồi nhớ lại thời cơ cực: “Hồi đó, vùng này còn nghèo lắm. Từ sáng sớm, những người đàn ông trong làng đã bới (xúc mang theo) một nạm cơm, rứa là xuôi ghe loanh quanh cồn để cào hến".
Cũng bởi con hến mà ai ai trong vùng này cũng bận rộn. Gọi là “nhừ con hến” cũng đúng. Đàn ông dãi nắng dầm sương thì phụ nữ, trẻ nhỏ, kể cả người già xứ cồn dù ở nhà cũng lo phụ việc nấu, đãi hến… Người trong làng cứ quần quật cả ngày, bất kể nắng mưa. Thậm chí những ngày gió bấc mùa đông, nước buốt, tê lạnh cũng không ngăn nổi những người xứ cồn chịu thương chịu khó.
Những năm gần đây, khi hến ở xứ cồn này dần cạn kiệt, chính quyền tuyên truyền không đánh bắt trong khu vực quanh cồn nên người dân kéo lên khu vực Thiên Mụ hay Ngã ba Sình để bắt, nhưng rồi công không đủ đổi lấy gạo. Vậy là chỉ còn một vài hộ yêu nghề duy trì bằng việc thu mua hến từ vùng khác về chế biến thành phẩm để bỏ cho các thương lái. Tưởng chừng như cái tên cồn Hến dần quên lãng, vậy mà, một lần nữa bằng "tiếng tăm" của xứ hến, người dân vùng bãi bồi này đã dùng món cơm hến để biến nơi đây trở thành điểm du lịch hút khách thập phương.
Bà Hồ Thị Hoa, 60 tuổi, người bán bún hến có tiếng vùng này, cho hay hơn 40 năm trước, kể từ ngày đầu bước chân về xứ cồn này làm dâu, bà đã sớm nối gót gia đình chồng làm nghề hến. Nhớ lại những ngày tháng rong ruổi khắp các ngã đường trong kinh thành để đổi lấy cái ăn cái mặc, bà Hoa bồi hồi: “Ngày xưa, tôi bán rong ăn cơm độn, dãi nắng dầm mưa vì cơm hến chỉ bán cho người nghèo, người lao động. Họ mua một vài đồng hến rồi trộn với cơm để ăn cho chắc bụng mà đi làm. Rứa mà thấm thoát cũng đã gần 40 năm trôi qua, chừ cơm hến đã là đặc sản”, bà Hoa nói.
Qua bao thăng trầm của dòng chảy, con hến của dòng sông Hương thơ mộng đã thay đổi bao số phận con người xứ cồn...
(còn tiếp)
Theo Nguyễn Phúc - Bá Cường - Lê Hoài Nhân (TNO)
 

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

null