Sự thật cây "ngải yêu"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Những câu chuyện kỳ bí về phép “ngải yêu” lâu nay vẫn được lan truyền ở vùng miền núi xã Tà Vàng (huyện Tây Giang, Quảng Nam), càng thôi thúc chúng tôi tìm về… Dưới lớp sương đại ngàn phủ dày trong đêm lạnh Trường Sơn, tôi quyết tìm thật hư “ngải yêu” như thế nào. Một người ở đây giải thích rằng, đó là một lệ tộc được truyền tụng trong đời sống tinh thần của đồng bào người Cơ Tu.
Đi tìm cây “ngải yêu”
Tôi tìm về làng Tà Vàng trong một ngày cuối tháng 10-2018, tiết trời se lạnh. Bà Alung Hút (90 tuổi), kể rằng: “Cây ngải dùng để bắt người khác yêu mình nhiều hơn thôi, muốn ở bên mình mãi, chứ không có hại người. Ở làng này có nhiều người bỏ bùa ngải để bắt người yêu lắm, nhưng e ngại không ai nói ra được…”.
Theo chỉ dẫn của nhiều người trong làng, tôi tìm gặp bà Ria Thị Điệp, người đàn bà duy nhất ở đây còn lưu trồng loại cây ngải này. Bước qua chiếc cửa hẹp, một chiếc nôi được đặt giữa sàn nhà để tiện tay bà đu đưa đứa cháu 5 tháng tuổi. Cùng đó là một xó bếp đen xỉn, vài thứ đồ đạc đi rừng nằm chen lẫn trong đống gỗ củi bừa bãi…
Bà Điệp chẳng lấy làm ngạc nhiên khi tôi lân la hỏi và muốn nhìn thấy cây ngải bà đang trồng. Một cảm giác gì đó lành lạnh khi nhìn gương mặt già nua đầy góc cạnh hoang dại của bà. Mái tóc được cắt ngắn củn, xơ xác. Đôi mắt đen nhánh nhưng u ám, cùng cái nhìn sâu thẳm khó diễn tả. Tôi cứ quan sát đôi bàn tay của bà đã bị băm vằm những vết cứa cứ đưa đi đưa lại, mà bất giác hình dung những nhọc nhằn về cuộc sống giữa rừng già này. 
Bà Điệp liếc nhìn tôi đầy vẻ bí hiểm. Như không muốn ai trong làng theo cùng, chỉ tôi mới được phép theo bà, nhưng với điều kiện phải “có lộ phí”.
Tôi theo bà lội qua con suối Ma Lơi, băng qua nhiều khúc đường quanh co, gập ghềnh. Bà Điệp năm nay đã gần 80 tuổi, nhưng bước chân đi rừng của bà thì thanh niên ở đây không ai theo kịp. Dù là người dẫn đường, nhưng bước chân bà đi như gió đẩy về phía trước khiến tôi thỉnh thoảng phải gọi bà ơi ới. 
 
Bà Điệp giữ gìn cây “ngải yêu” của mình như báu vật trong tận rừng sâu. 
Hơn 1 giờ loanh quanh trong rừng, tôi cũng đến được khu rừng trồng cây ngải bí mật của bà Điệp. Nơi đây bốn bề mây núi chập chùng. Bà đặt đầu gậy lồ ô vào một cây thấp lè tè, đưa tay vạch loạt cây dại bao bọc xung quanh. “Ngải yêu” lộ ra là cây nằm sát mép đất, có khoảng 5 lá màu xanh hình lưỡi kiếm nằm lẫn khuất giữa những cây khác. 
Bà nói rất khẽ bằng tiếng Cơ Tu, tôi phải nhờ một người trong đoàn dịch giúp: “Đây là 2 cây ngải ta trồng được, lá ra không hái rồi tự động héo chết, rễ bám đất sống từ năm này qua năm khác thôi. Có mua không thì tao bán cho, về để bỏ bùa trai nó yêu mình”. Bà đưa tay chỉ về hướng ra xa hơn chút, ở đó bà bảo còn được 5 cây ngải nữa…
Chỉ là những câu chuyện kể
Bà Điệp kể rằng: “Nhờ loại cây này mà tao cưới được chồng. Lúc đầu hắn (chồng bà) không thương tao, tao đã bứt lá cây này về để trên đầu nằm của hắn. Nhưng phải bí mật, vì nếu hắn biết sẽ mất tác dụng và thù ghét mình. Rồi nhờ cây ngải này mà hắn thương và tao bắt được chồng”.
Bà Điệp cũng cho hay, bà đã bán lá bùa yêu này cho rất nhiều người. Họ từ Sài Gòn, Hà Nội vào mua. Có người còn quay lại cảm ơn bà vì “đoạt” được người mình yêu. “Chính hai đứa con gái, con trai bà Điệp cũng nhờ thứ lá cây kỳ bí này mà bắt được chồng, được vợ” - bà Điệp nói.
Tôi dạm ngỏ muốn xin một lá, bà dặn dò: “Khi đem lá cây này về, dùng tay chà nát rồi lén bỏ vào túi quần áo, dưới chỗ nằm, hoặc xát lên người “đối tượng” là hắn phải yêu mình. Nhưng mỗi năm phải làm một lần để bùa không bị phai. Nhưng cũng thật thận trọng, nếu không người thân dính vào cũng sẽ phát huy tác dụng, cũng yêu mình thì thật không hay”. Tôi mường tượng và có chút bất ổn. 
 
Cây “ngải yêu” có tên khoa học là ameer, cùng họ với loại cây nghệ, cây gừng.  
Quay lại câu chuyện bà Hút, bà Điệp phân bua rằng: Cũng nhờ cái lá “ngải yêu” của tao, mà bà Hút mới bắt được chồng. Bà Hút có cả thảy ba đời chồng, 10 đứa con, 14 cháu nội ngoại. Người chồng thứ 3 của bà Hút nhỏ hơn bà đến 20 tuổi”.  
Theo tập quán ở đây, “ngải yêu” chỉ truyền cho nữ. Tuy nhiên, bà Điệp vẫn dành “ngải” cho con trai mình bắt vợ, vì bà muốn cô gái kia làm dâu nhà mình. Một câu chuyện khác được già làng ở đây kể: “Những năm sau giải phóng, có 6 thầy cô giáo người Kinh tình nguyện lên đây dạy chữ nhưng không thể tìm được người yêu. Người trong làng đã hái lá ngải cho. Kết quả 6 thầy cô giáo nói trên sau một mùa hè đã tìm được vợ, được chồng”.
Là loại cây ameer, có mùi hương
Theo thạc sĩ dân tộc học Nguyễn Tri Hùng, chuyện “ngải yêu” tập tục tồn tại lâu đời trong cộng đồng dân tộc miền núi. Từ Cơ Tu, Xê Đăng, rồi kéo sang Bhnoong. Loại ngải này có tính gia truyền, chỉ truyền cho con cháu trong nhà, từ đời này sang đời khác.
Cũng theo ông Hùng, do tập tục sống giữa rừng núi thâm sâu, chuyện bùa ngải cứ như là phép màu, là sức mạnh của đồng bào. Nhiều phân tích khoa học chứng minh rằng, những cây bùa ngải mà người đồng bào thường dùng là những cây dược liệu sống trong rừng. Có nhiều loại ngải khác nhau, nhưng chung quy lại có hai tác dụng là ngải dùng để cứu người hoặc hại người.
Riêng chuyện “ngải yêu”, theo giải thích của ông Hùng, có lẽ loại cây ameer cùng với cây gừng, cây nghệ có mùi thơm dễ chịu. Kiểu như mùi hương nước hoa, khiến người ta say đắm nhau, rồi yêu thương nhau thôi.
Rừng chiều đầy âm u. Trên đường theo chân bà Điệp quay trở lại nhà Gươl, tôi đã thả trôi lá “ngải yêu” xin bà lúc nãy theo dòng suối Ma Lơi. Bởi bất giác, tôi nghĩ về những câu chuyện đẹp về tình yêu đang diễn ra đâu đó mỗi ngày ở dưới xuôi. Và có lẽ, những câu chuyện về “ngải yêu” được kể ra từ làng Tà Vàng như đầy xa xôi, hay chỉ là những câu chuyện mua vui được kể thoáng qua trong những buổi lân la trà, rượu… 
Đông Hải (ĐTTCO) 

Có thể bạn quan tâm

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

Vào rừng... chờ ươi bay

Vào rừng... chờ ươi bay

Sau 4 năm, khi những cánh rừng già miền núi TP.Đà Nẵng (Quảng Nam cũ) chuyển mình vào mùa ươi chín, hàng ngàn người dân lại có một cuộc 'di cư' tạm thời vào rừng sâu chờ 'lộc trời' rơi xuống để nhặt.

Gặp người phụ nữ 78 năm tuổi Đảng

Gặp người phụ nữ 78 năm tuổi Đảng

(GLO)- Chúng tôi không khỏi xúc động khi mới đây được trò chuyện với bà Nguyễn Thị Thành-nguyên Giám đốc Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Gia Lai, người phụ nữ năm nay 95 năm tuổi đời, 78 năm tuổi Đảng với sự mẫn tiệp hiếm thấy.

Cán bộ, chiến sĩ Đội chữa cháy và cứu nạn cứu hộ khu vực Ayun Pa chữa cháy kho mì tại thôn Plei Tăng A, xã Ia Ake, huyện Phú Thiện. Ảnh: Vũ Chi

Lính cứu hỏa trên mặt trận không tiếng súng

(GLO)-Nghề nào cũng có vinh quang riêng, song với cán bộ, chiến sĩ phòng cháy và cứu nạn cứu hộ, bên cạnh niềm tự hào nghề nghiệp còn là sự hy sinh thầm lặng. Trên mặt trận không có tiếng súng, không có tội phạm nhưng muôn vàn nguy hiểm, họ luôn dốc hết sức mình vì bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Vườn cây của gia đình chị Nguyễn Thị Huệ -Công nhân Đội 2, Công ty Cà phê Ia Sao 2 trồng năm 1986 vẫn đạt sản lượng 24 tấn quả tươi/ha. Ảnh: Đinh Yến

Những công nhân tiêu biểu trong lao động giỏi, sáng tạo

(GLO)- Bằng lòng đam mê, nhiều công nhân tại các công ty cà phê tỉnh Gia Lai đã không ngừng học hỏi và có những sáng kiến mới áp dụng vào sản xuất. Họ không chỉ nâng cao đời sống gia đình mà còn mang lại nhiều nguồn lợi cho đơn vị, góp phần tô thắm thêm phẩm chất tốt đẹp của giai cấp công nhân.

null