Nhớ một tiếng rao

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Ai… cối xay… khép hông?
Ở vùng quê Phước Sơn (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định), vào những năm 60 thế kỷ trước, cả xã chỉ có 1 máy xay lúa của ông Xã Nhị, người thôn Xuân Phương. Người dân các làng muốn xay phải gánh hoặc chở lúa bằng xe đạp đến, trả công bằng tiền mặt hoặc để lại cám cho nhà máy. Tuy vậy, số người đưa lúa đến xay còn ít, phần đông vẫn tự xay và giã lấy ở nhà. Như những nhà khác trong làng, gia đình tôi cũng có 1 bộ cối chày giã gạo và chiếc cối xay lúa. Chiếc cối giã bằng gỗ, hình chữ nhật, cao đến đầu gối, giữa đục lõm sâu xuống. Đôi chày có từ đời nào đã bóng nước, hai đầu tròn và dài, phần giữa thắt lại cho dễ cầm. Thường cứ khoảng 4-5 ngày là má tôi lại vần chúng ra từ xó cửa nhà bếp để giã.
Chiếc cối xay đặt ngay khoảng trống giữa nhà ngang và nhà bếp, chiếm khoảng chừng 4 m2. Nó gồm có 1 thớt trên hình tròn, đường kính khoảng 50 cm, cao 60 cm, đan bằng tre cật, bên trong đổ đất cứng, giữa trống để đổ lúa, bên dưới mặt thớt đầy răng, hai bên thớt có hai tai cối bằng gỗ, trống ở giữa để móc cần cối xay vào. Thớt dưới cũng hình tròn, đổ đất cứng, răng chĩa lên trên, cả cỗ thớt cố định trên chân đế làm bằng gỗ căm xe hoặc gỗ cây ké. Tại tâm điểm của thớt dưới, người ta đục một lỗ hình vuông cạnh dài 4 cm để cắm vào một dụng cụ gọi là trụ ngõng. Đó là 1 đoạn gỗ hình trụ có đường kính khoảng 3 cm (thường làm bằng cây lồng mức hoặc duối) làm trụ cốt cho thớt dưới và trục quay cho thớt trên, giúp hai thớt khít nhau, khó xê dịch khi xay. Thớt dưới được đan thêm 1 vòng tròn cũng bằng tre gọi là mông cối bao quanh lồng cối, đường kính dài hơn thân cối, cao khoảng 10 cm để đựng thóc xay trước khi chảy xuống chiếc thúng hứng bên dưới.
Minh họa: Huyển Trang
Minh họa: Huyển Trang
Khi xay, thóc đổ vào miệng cối rơi xuống nằm giữa 2 thớt. Chiếc cần cối hình chữ T lộn ngược, phần đầu hình chữ L đã được móc vào 1 bên tai cối, giữa tay cầm cần có 1 sợi dây thừng buộc giữ cần cối với xà nhà phía trên cho chắc. Chiếc cần cối xay này làm bằng gỗ kiền kiền rất chắc, nghe má tôi kể là hình như nó đã có từ thời ông nội, bởi khi má tôi về làm dâu đã thấy có nó rồi. Cần cối xay dùng lâu ngày nên cũng bóng nước. Khi xay lúa, người cầm cần đứng chụm chân đẩy chiếc cần cối xay quay tròn theo một nhịp điệu đều đều. Những chiếc răng cối xay của 2 thớt cối ma sát nhau, nghiến lớp vỏ, đưa những hạt lúa đã bóc vỏ rơi xuống mông cối rồi tiếp tục rơi rào rào xuống thúng đựng bên dưới, chốc chốc người xay lại thò tay dồn lúa vào miệng mông cối cho lúa chảy xuống nhanh hơn. Thóc sau khi xay sẽ được đưa vào cối giã thêm một lần nữa rồi má tôi dùng sàng và giần, sảy để cho ra những hạt gạo không trắng lắm nhưng khi nấu cơm rất thơm (ngày trước quê tôi thường trồng lúa Tám Thơm, lúa Cúc… thân lúa cao để sau khi thu hoạch sẽ dùng rạ đánh tranh lợp mái nhà).
Do thường dùng nên cứ sau vài mùa là răng cối xay bị mòn, lung lay phải thay. Vậy là, có những người thợ chuyên sửa gọi là thợ khép cối xay. Họ đi bộ gánh một bên là thúng đựng các thứ đồ nghề như: chàng, đục, dùi đục… bên thúng kia đựng đất và những miếng dăm gỗ làm răng cối. Tháng ba, thợ khép cối đi khắp các làng rao đều: “Ai... cối xay… khép… hông?”. Tiếng rao được nhấn trọng âm ở tiếng “khép” rồi hạ giọng xuống cứ vang ra xa, kéo dài qua các ngõ xóm. Nhà nào cần sửa thì gọi thợ vào. Thợ khép cối xay thường là đàn ông, họ vào nhà thong thả uống nước trà chủ mời, xem cối xong đâu đó mới lấy trầu ra ăn. Nhai một chốc, họ nhổ bã trầu rồi xắn tay vào làm. Đầu tiên là lật thớt trên xuống, đục hết đất, tháo các răng cối ra. Thớt dưới cũng vậy. Rồi lấy đất ụ mối đã mang theo (phải đất ụ mối vì vừa dẻo, vừa cứng) phun nước một lần nữa cho dẻo và cứng thêm, dồn vào, cắm các răng xếp theo một trật tự riêng chỉ có thợ mới nắm được, dùng dùi đục gõ răng cho chắc, thêm đất… Mỗi lần khép cối xay như vậy mất thời gian khoảng nửa buổi. Xong đâu đó đổ lúa vào xay thử, chủ ưng bụng mới nhận tiền công rồi họ lại gánh đi, tiếp tục rao: “Ai... cối xay… khép hông?”.
Những năm sau này, quê tôi xuất hiện thêm nhiều nhà máy xay lúa, bà con không còn giã và xay lúa nữa. Thợ khép cối xay cũng từ giã nghề. Những chiếc cối giã và cối xay cũng dần biến mất. Cùng với nỗi luyến tiếc về một thời thơ ấu, tôi không khỏi bâng khuâng biết rằng có những tiếng rao mãi mãi không bao giờ còn nghe được trong đời…
THANH PHONG

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.