Nhân văn tập tục cưới xin của người Bahnar

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Từ xưa đến nay, người Bahnar không thách cưới, ép gả. Đặc biệt, đám cưới được thực hiện theo phương thức “song hệ”, tức là cả 2 gia đình nhà trai và nhà gái cùng chăm lo chu đáo cho ngày quan trọng này.

Ông Suk-một trong những người am hiểu về văn hóa truyền thống của đồng bào Bahnar ở làng Piơm (thị trấn Đak Đoa) cho hay: Từ xa xưa, người Bahnar cũng có tục hứa hôn (mĕ [ă rơ\ng) kiểu cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Tuy nhiên, theo thời gian, người Bahnar dần loại bỏ tục hứa hôn, bắt đầu coi trọng quyền tự do hôn nhân của con cái, không ép buộc, thách cưới hay gả bán.

Các chàng trai, cô gái khi đến tuổi cập kê được tự do tìm hiểu, lựa chọn người mình yêu thương nhưng tuyệt đối không được quan hệ thân xác. Trong trường hợp đôi trai gái đã quan hệ với nhau mà không nên vợ chồng thì sẽ bị nhà gái bắt phạt rất nặng.

Tốp người theo người mai mối đến “bắt” anh em họ hàng hỗ trợ heo gà để mừng đám cưới. Ảnh: A.D

Tốp người theo người mai mối đến “bắt” anh em họ hàng hỗ trợ heo gà để mừng đám cưới. Ảnh: A.D

Vì lẽ đó, khi đôi trai gái tìm được ý trung nhân thì họ tìm đến người mai mối để se duyên. Thông thường, chàng trai chủ động tìm người mai mối, chọn người uy tín, giỏi ăn nói và không có họ hàng với 2 gia đình để đứng ra “đánh tiếng” với cô gái.

Qua mai mối, nếu cô gái đồng ý thì sẽ tiến hành lễ đính hôn (et sơkơ\t jơ\ng). Trong trường hợp cô gái không đồng ý thì người mai mối lặng lẽ báo lại cho chàng trai, giữ kín, không để chuyện này lọt ra ngoài, sợ ảnh hưởng đến danh dự của chàng trai.

Bà Yao (71 tuổi) là bà mối đã từng se duyên cho hàng chục cặp vợ chồng ở làng Piơm. Bà chia sẻ: “Khi chàng trai, cô gái đem lòng yêu nhau, bố mẹ biết thì nhờ người mai mối đến hỏi ý kiến 2 người, nếu cả 2 đồng ý thì tổ chức lễ đính hôn. Người mai mối cầm tay chàng trai trao cho cô gái căn dặn 2 người mãi yêu thương nhau và giữ trọn lời hẹn ước”.

Cũng theo bà Yao, lễ đính hôn được tiến hành đơn giản, không cầu kỳ nhưng có ý nghĩa rất quan trọng, vì đây là sự ràng buộc tình duyên của đôi trai gái. Sau lễ đính hôn, đôi trai gái tuyệt đối không được có quan hệ yêu đương với những người khác, trường hợp 1 trong 2 người bội ước, đem lòng yêu người khác thì gia đình người bị bỏ rơi có quyền bắt phạt theo những gì đã hứa. Theo đó, có thể lấy đất đai, ruộng, rẫy, trâu, bò hoặc tài sản, chiêng, ché quý... như bắt phạt khi ly hôn.

Trong thời gian đính hôn, đôi trai gái không được phép ăn ở như vợ chồng, có thể đi làm giúp nhau, nhưng phải có người đi cùng và khi xong việc bắt buộc phải về lại nhà mình. Thậm chí ở một số nơi còn cấm không cho đôi trai gái đã đính hôn đi làm đổi công chung, sợ 2 đứa “vượt rào” lỡ không nên duyên vợ chồng sẽ gây sự hận thù, chia rẽ 2 gia đình. Đây là cách mà gia đình 2 bên phòng khi 1 trong 2 người thay lòng đổi dạ.

Sau thời gian đủ để tìm hiểu nhau, nếu không có trắc trở hay sự thay lòng đổi dạ thì gia đình tổ chức đám cưới (et pơkong) cho đôi trai gái. Xưa kia, người Bahnar thường hứa hẹn sau khi thu hoạch xong mùa màng, lúa đầy bồ, bắp đầy kho, trâu bò đầy chuồng, heo gà đầy sân... thì tổ chức đám cưới.

Tại lễ cưới, cùng những lời chúc phúc, trước sự chứng kiến của họ hàng 2 gia đình và bà con thân tín, người mai mối hoặc một người uy tín trong họ hàng 2 bên sẽ đứng ra căn dặn cô dâu, chú rể phải sống hòa thuận, luôn yêu thương nhau; chăm làm để xây dựng cuộc sống gia đình và đặc biệt phải hiếu thảo, kính trọng cha mẹ của nhau.

Về lễ vật, bắt buộc phải có để cúng các Yàng, mời gọi tổ tiên về chứng kiến lễ cưới, gồm: 1 ché rượu ghè, 1 con gà (ie\r pơ, tơdrơ bo#i), 2 nắm cơm và 2 sợi dây chuyền. Ông Hyết (làng Piơm) cho hay: “Khi tiến hành lễ cưới, thầy cúng sẽ cúng với lễ vật gồm gà nướng, 2 nắm cơm để chàng trai và cô gái cầm đưa cho nhau ăn, thể hiện sự đồng ý nên duyên vợ chồng.

Tiếp đó, người mai mối lấy 2 sợi dây chuyền trộn vào nhau và kéo lên, nếu 2 sợi dính vào nhau thì 2 người là duyên trời định, sẽ sống với nhau trọn đời. Nếu 2 sợi dây không dính vào nhau, qua 3 lần xáo trộn kéo lên thì cho rằng, 2 người không có duyên, sau này rất dễ xung đột, ly hôn”.

Rượu ghè se duyên vợ chồng. Ảnh: A Dơng

Rượu ghè se duyên vợ chồng. Ảnh: A Dơng

Trước ngày cưới 1 ngày, khi chiều xuống, heo gà đã vào chuồng, người mai mối dẫn theo một tốp người đi đến từng nhà họ hàng 2 bên “bắt” anh em họ hàng hỗ trợ heo gà (đo# nhu\ng ie\r) tùy khả năng có, rồi đem về nhà cô gái tổ chức đám cưới. Những con vật này sẽ được người mai mối tổ chức giết mổ, nấu nướng sẵn. Hôm sau, anh em họ hàng thân thiết, từng người mang theo ghè rượu của gia đình đến nhà gái cùng uống rượu mừng.

Ông Suk chia sẻ thêm: “Đám cưới Bahnar không tồn tại tục thách cưới, trả tiền công nuôi dưỡng... Việc tổ chức cưới cũng không bắt 2 bên gia đình bỏ ra tiền của như nhau. Nếu nhà trai không có điều kiện thì có thể góp cho ngày cưới ít hơn, nhà gái có điều kiện hơn thì góp nhiều hơn. Đây là nét nhân văn, cái chính là bày tỏ niềm vui có dâu, rể, bày tỏ tấm lòng thương yêu con cái; mừng con cái có gia đình, gắn bó với nhau trọn đời”.

Ngày nay, việc cưới xin của người Bahnar có một số thay đổi cho phù hợp với đời sống mới. Tuy nhiên, những tục lệ truyền thống giàu tính nhân văn như: không thách cưới, không ép buộc hoặc gả bán và cả 2 gia đình cùng chung sức lo cho ngày cưới vẫn được duy trì. Có lẽ bởi thế mà cuộc sống hôn nhân của người Bahnar thường rất bền chặt.

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.