Ở tuổi 65, đôi chân không còn sự rắn rỏi nhưng ông Djung vẫn miệt mài thực hiện những chuyến đi rừng từ 5 đến 10 ngày, thậm chí cả tháng. Ông đi không phải để tìm lâm sản mà để... giữ rừng. Ông bộc bạch: “Khi tôi sinh ra đã có khu rừng già Kon Ka Kinh. Những cây cổ thụ nơi đại ngàn chính là mái nhà đã che chở, nuôi sống tôi và dân làng”.

Cũng chính vì vậy mà với ông Djung, những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, các loài chim, thú, linh trưởng... là những “người bạn” cần được bảo vệ. Từng con dốc, dòng suối, hòn đá, gốc cây trong khu rừng già của Vườn quốc gia Kon Ka Kinh đều in bước chân của ông; những đàn voọc, khỉ hay chim khướu... di chuyển tìm thức ăn ở đâu ông cũng đều biết rất rõ.
Từ khi Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh được thành lập, ông Djung là một trong những người đầu tiên tham gia tổ bảo vệ rừng cộng đồng. Từ tình yêu núi rừng và thích nghiên cứu về rừng, ông dần trở thành nhân tố không thể thiếu trong các chương trình nghiên cứu khoa học quốc tế tại Vườn.
Anh Nguyễn Văn Tây-Điều tra viên Hội Động vật học Frankfurt (Đức) tại Việt Nam-chia sẻ: “Ông Djung có thể kể tên từng loài chim, thú, mô tả thói quen sinh hoạt của đàn voọc chà vá chân xám bằng trí nhớ và tình yêu say mê. Không chỉ thông thạo địa hình, ông còn hiểu rất rõ tập tính của các loài linh trưởng. Những dữ liệu ông cung cấp chính xác đến từng chi tiết như: giờ đi ăn, giờ nghỉ, thói quen ăn uống, nơi trú ẩn… Nếu không có ông, nhiều cuộc thực địa sẽ không thể đạt được hiệu quả như vậy”.

Từ vai trò của một người dẫn đường đảm nhận các công việc phụ, hỗ trợ cho một chuyến thực địa, sau vài năm, ông Djung đã được các chuyên gia tin tưởng giao thiết bị, máy ảnh, camera chuyên dụng để trực tiếp tham gia vào quá trình giám sát, thu thập dữ liệu, hình ảnh nghiên cứu đặc tính của loài voọc chà vá chân xám. Mỗi ngày, ông chụp đến hàng trăm tấm ảnh, cung cấp dữ liệu cho việc xây dựng bản đồ phân bố loài và đề xuất giải pháp bảo tồn.
“Ban đầu, tôi cũng sợ vì chưa biết cách ghi chép, thống kê số liệu, chưa từng cầm máy ảnh. Nhưng khi bắt đầu làm rồi quen tay, giờ thì thấy thích lắm. Mỗi lần bắt được hình con voọc rõ nét là tôi vui quên cả ăn uống”-ông Djung chia sẻ.
Không chỉ trực tiếp tham gia, ông Djung còn là người “truyền lửa” giữ rừng, bảo tồn hệ sinh thái rừng cho cả cộng đồng. Từ khi tổ bảo vệ rừng được thành lập, người Bahnar trong vùng không còn săn bắt, không phá rừng làm rẫy trong vùng lõi. Thay vào đó, bà con bắt đầu hào hứng với công việc tham gia nhận khoán bảo vệ rừng, học cách kể chuyện rừng, làm du lịch cộng đồng bền vững.
Ông Ngô Văn Thắng-Giám đốc Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh-khẳng định: “Từ vai trò bị động, người dân giờ đã trở thành những người đồng hành chủ động trong công tác bảo tồn thiên nhiên, gắn với phát triển kinh tế rừng từ làm du lịch. Đó là một sự chuyển biến lớn về nhận thức và những người như ông Djung là hạt nhân lan tỏa mạnh mẽ”.

Sau những chuyến đi rừng dài ngày, trở về làng, ông Djung bắt đầu với công việc mới là làm hướng dẫn viên du lịch. Trong ngôi nhà rông truyền thống ở làng Đê Kjiêng, ông Djung treo đầy những bức ảnh voọc chà vá chân xám mà mình chụp được trong quá trình làm việc, nghiên cứu cùng các nhà khoa học. Mỗi bức ảnh là một câu chuyện, một lời nhắn nhủ đến người dân và du khách: “Rừng và người không thể tách rời. Nếu rừng mất, người Tây Nguyên cũng mất vì văn hóa của người Tây Nguyên gắn bó với rừng”.
Sau hơn 1 thập kỷ, với sự đóng góp tích cực của những người như ông Djung, nhiều cánh rừng của Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh không chỉ hồi sinh độ che phủ mà còn phục hồi đa dạng sinh học. Hiện nay, vườn có hơn 1.700 loài thực vật, hơn 800 loài động vật, trong đó nhiều loài quý hiếm như voọc chà vá chân xám-loài linh trưởng đặc hữu quý hiếm của Việt Nam có tên trong Sách đỏ thế giới-đang dần tăng số lượng.
Tiến sĩ Hà Thăng Long-Trưởng văn phòng Hội Động vật học FrankFurt tại Việt Nam-cho biết: “Từ chưa tới 200 cá thể được xác định cách đây hơn 10 năm, đến nay, chúng tôi đã ghi nhận hơn 850 cá thể voọc chà vá chân xám. Một quần thể lớn đang sinh sống ổn định trong vùng lõi Kon Ka Kinh và đang có xu hướng tiếp tục phát triển. Đây là một trong những thành quả góp phần đưa cao nguyên Kon Hà Nừng trở thành Khu dự trữ sinh quyển thế giới”.
...Một đời dành tình yêu cho rừng, không cầu danh lợi, ông Djung chỉ mong một điều giản dị: “Rừng mãi xanh, loài voọc không tuyệt chủng và du khách đến tham quan thấy yêu rừng và các loài động-thực vật để buôn làng có thêm sinh kế”.
Bằng tình yêu với rừng, ông Djung đã tự mình viết nên một câu chuyện đẹp ở giữa núi rừng Kon Ka Kinh, truyền cảm hứng để người Bahnar tiếp tục hành trình giữ rừng, phát huy kho di sản quý báu của Khu dự trữ sinh quyển thế giới cao nguyên Kon Hà Nừng.