Người Việt làm thuê ở Malaysia (kỳ 1): Xóm người Chăm An Giang ở Klang

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Từ cuối chiến tranh Việt Nam 1975 cho đến năm 1993, chính quyền Malaysia đã tiếp nhận không dưới 7.000 người Chăm Hồi giáo tị nạn từ VN và Campuchia bởi những người Chăm này theo đạo Hồi và có nhiều nét tương đồng với người Chăm ở Malaysia.

Theo một nghiên cứu của Danny Wong Tze Ken, giáo sư khoa lịch sử của Trường ĐH Malaya (Malaysia) nhóm người Chăm này là nhóm duy nhất trong số hơn hàng chục nghìn người tị nạn Việt Nam qua Malaysia được chính phủ nước này chấp nhận.

 

Ngôi nhà của ông Ya Yah, một người Chăm gốc Việt, đã sinh sống tại làng Delek trong hơn 25 năm qua.
Ngôi nhà của ông Ya Yah, một người Chăm gốc Việt, đã sinh sống tại làng Delek trong hơn 25 năm qua.

Tìm đường đến Lorong 2236

Sau nhiều ngày tìm hiểu, chúng tôi được biết có nhiều ngôi làng Chăm từ Việt Nam sang ở Malaysia, trong đó có một xóm chăm ở làng Delek, một khu vực thôn quê thuộc thành phố cảng Klang, bang Selangor, cách thủ đô Kuala Lumpur khoảng 50km về hướng tây. Hầu hết dân làng ở đây chưa có quốc tịch của cả Malaysia lẫn Việt Nam.

Qua sự kết nối của một Việt kiều sinh sống lâu năm tại Malaysia, chúng tôi liên lạc được với ông Abu Baka, trưởng xóm người Chăm gốc Việt ở làng Delek, có vợ là người dân tộc Kinh quê ở Bến Tre. Qua điện thoại, ông Abu Baka cung cấp cho chúng tôi địa chỉ của ngôi làng.

Từ trung tâm thành phố Klang, qua rất nhiều con đường ngoằn ngoèo, chúng tôi mới đến được Delek, một khu vực thanh bình, nhiều dân cư nằm cách cảng biển Klang khoảng 7km. Ở đây có nhiều lorong (con đường nhỏ theo tiếng địa phương) được đánh theo số thứ tự. Phải vất vả lắm tài xế taxi mới tìm được Lorong 2236 theo địa chỉ mà ông Abu Baka cung cấp.

Đó là một con đường đất vừa đủ cho một ôtô đi vào. Lúc đến đầu ngõ dẫn vào Lorong 2236, chúng tôi gặp một bé gái người Chăm đầu đội khăn đang chạy xe đạp. Chúng tôi hỏi: “Có người Việt ở đây không?”, thì cô bé nở nụ cười thân thiện trả lời bằng tiếng Anh: “Có. Anh đi thẳng vào bên trong và hỏi người dân dọc hai bên đường”.

Dọc hai bên đường là những ngôi nhà và quán ăn lụp xụp. Có rất nhiều phụ nữ choàng khăn ở đầu, đàn ông thì nước da đen nhẻm, mặc xà rông kẻ sọc carô, áo sơmi... và lúc nào cũng có chiếc nón vải tròn đội đầu. Trên đường bạn có thể bắt gặp rất nhiều dân địa phương mặc trang phục truyền thống trong sinh hoạt hằng ngày. Nam giới thường mặc xà rông, phụ nữ thì mặc abaja và quấn khăn hijab.

Khi tôi lân la hỏi: “Có người Việt ở đây không?” thì ông Ismail, quê ở Châu Đốc (An Giang), dừng xe máy lại và hỏi chuyện. Lúc này chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm vì tìm đúng làng người Việt ở Klang.

 

Ông Ali (bìa trái) và ông Amran (thứ hai từ trái) tại một tiểu thánh đường ở làng Delek. Các ông thường trò chuyện với nhau bằng tiếng Việt để không quên ngôn ngữ và nguồn cội Việt Nam.
Ông Ali (bìa trái) và ông Amran (thứ hai từ trái) tại một tiểu thánh đường ở làng Delek. Các ông thường trò chuyện với nhau bằng tiếng Việt để không quên ngôn ngữ và nguồn cội Việt Nam.

Cuộc sống khó khăn

Ông Ismail cho biết có khoảng 200 người dân tộc Chăm gốc Việt đang sinh sống ở làng Delek cùng những người Chăm từ Campuchia sang theo diện tị nạn. Ismail kể hầu hết người Chăm gốc Việt ở đây đều đến từ làng Chăm ở tỉnh An Giang. Họ từ An Giang qua Nam Vang, rồi sau đó lên tàu vượt biển đi Malaysia cùng nhiều người Chăm ở Campuchia từ những năm đầu 1980 đến những năm đầu thập kỷ 1990.

Một dân làng tại làng Chăm Delek cho biết sau khi đến Malaysia, những người Chăm này được đưa vào trại tị nạn ở Pahang, bang lớn thứ ba ở Malaysia, một số ít thì đến trại tị nạn Palau Bidong trên đảo Bidong nằm ngoài khơi bang Terengganu của nước này.

Ông Amran (56 tuổi, quê ở Châu Đốc), từng ở trại tị nạn tại Pahang, cho biết người Chăm từ Việt Nam di cư sang đây chủ yếu vì vấn đề kinh tế chứ không phải chính trị. Hầu hết người Chăm gốc Việt sống tại đây sống bằng nhiều nghề như phụ hồ, làm mướn, buôn bán vải, quần áo cũ... ở những ngôi chợ khắp Klang.

Ông Yah Ya (53 tuổi), sống trong một ngôi nhà lụp xụp, kể với chúng tôi rằng do không có ruộng đất canh tác trong khi làm mướn không đủ ăn nên ông quyết định mang ba đứa con nhỏ cùng vợ qua Malaysia làm ăn những năm 1990. Sau khi ở trại tị nạn tại Pahang trong một năm, ông làm đủ thứ nghề kiếm sống trước khi chuyển sang sống ở đây để sum họp với xóm làng.

Còn ông Ali (56 tuổi), một trong hai cư dân người Chăm gốc Việt lâu năm nhất ở làng, cho biết ông đến Delek những năm đầu thập kỷ 1980. Hai vợ chồng không có con nên nhận hai người con nuôi. Ông Ali trải qua nhiều nghề như thợ hồ, buôn bán vải. Dù sinh sống ở Malaysia đã hơn ba thập kỷ và nhiều lần nộp đơn xin quốc tịch, nhưng cho đến giờ ông Ali vẫn chưa có quốc tịch Malaysia.

Tâm sự với chúng tôi, ông Ismail (49 tuổi) cho biết vì nghèo quá nên phải đi kiếm sống. Đã qua Malaysia được hơn 20 năm, nhưng hai vợ chồng vẫn ở nhà thuê với giá 350 ringgit/tháng (gần 2 triệu đồng).

Hòa nhập

Trong một ngày tại làng Chăm, chúng tôi thấy người Chăm gốc Việt ở đây duy trì những thói quen của họ như khi sống ở Việt Nam. Từ sáng sớm tinh mơ, dân làng đã thức dậy để chuẩn bị một ngày mới và đến thánh đường cầu nguyện trước lúc mặt trời mọc. Sau khi rời thánh đường, nhiều người lớn trong làng tụ tập ngồi uống trà, cà phê tán gẫu.

Trẻ con cũng phải dậy sớm đi học. Ông Amran cho biết trường cấp I, cấp II chỉ cách ngôi làng 1km trong khi trường cấp III cũng chỉ cách... 2km nên trẻ con đi học rất thuận tiện. “Trẻ con Chăm gốc Việt đi học cùng trường với người Malaysia” - Amran nói.

Amran cho biết ngoài việc thức ăn Malaysia khô, nhiều dầu và hơi lạ, người Chăm gốc Việt không gặp vấn đề gì về hòa nhập. “Người Chăm ở Malaysia và người Chăm ở Việt Nam hầu như tương đồng về lối sống, văn hóa và cả tôn giáo” - Amran giải thích.

Dù người Chăm gốc Việt ở đây thường nói tiếng Việt với nhau nhưng con cái của họ lớn lên hầu như quên hết tiếng Việt. “Lúc tôi mới qua Malaysia thì đứa con đầu 10 tuổi. Giờ nó đã hơn 35 tuổi nhưng không nói được nhiều tiếng Việt. Các con tôi chỉ giao tiếp bằng tiếng Malay” - Amran nói.

Ông cho biết mẹ già và nhiều anh em ruột vẫn còn ở An Giang nên rất nhớ quê nhà. “Lúc sang đây tôi mang theo bốn đứa con nhỏ. Ở đây vợ chồng tôi sinh thêm ba đứa nữa. Cuộc sống ở đây quen rồi nên chúng tôi sẽ không quay lại Việt Nam sinh sống nhưng chúng tôi muốn đưa con mình về thăm quê hương, mồ mả tổ tiên để chúng hiểu về nguồn cội của mình” - Amran nói.

Theo tuoitre

Sống cực vì thiếu giấy tờ

Ông Yah Ya, một trong số ít người Chăm gốc Việt may mắn được cấp quốc tịch Malaysia, cho biết theo quy định của luật pháp Malaysia, những người nước ngoài sống ở Malaysia phải đủ 12 năm mới được phép nộp đơn xin quốc tịch. Thông thường người Chăm gốc Việt xin nhập tịch Malaysia phải đáp ứng ba điều kiện: nói rành tiếng Malay, tuân theo phong tục tập quán của Malay và phải là tín đồ đạo Hồi. Tuy nhiên, theo ông Yah Ya, việc được cấp quốc tịch cũng hên xui.

Những người không có giấy tờ hợp pháp như vợ chồng ông Ismail, bà Mariam thì luôn sống trong sợ sệt vì “không có giấy tờ thì cực dữ lắm”. Ông Ismail quê ở Châu Đốc, người đã rời Việt Nam cách đây 25 năm, nói mỗi khi biết công an đến kiểm tra giấy tờ thì dân làng báo động cho nhau để trốn. Những người không may mắn thì bị bắt trong trại tạm giam khoảng một, hai tháng trước khi bị trục xuất trở về lại Việt Nam. Cũng có người biết cách lo lót thì được tha.

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

null