Người nặng lòng với văn hóa Gia Lai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Cách đây hơn 10 năm, tôi được GS. Nguyễn Tấn Đắc hướng dẫn thực hiện một bài tập lớn. Trước đó, khi đọc hồ sơ cá nhân của học trò xong, ông điện thoại cho tôi: “Tôi già rồi, chuyên môn sâu về lĩnh vực này lại mỏng. Nhưng anh là người Gia Lai nên tôi đồng ý”.

Làm việc dưới sự chỉ dẫn của GS. Nguyễn Tấn Đắc nhiều năm liền, tôi nhớ mãi những chuyện ông kể: Tập kết ra Bắc sau năm 1954, ông được cử đi đào tạo về nghiên cứu văn học. Rời Bắc Kinh (Trung Quốc) năm 1961, ông về làm việc tại Viện Văn học.

Năm 1973, khi thành lập Viện Đông Nam Á, ông được tăng cường sang làm công tác quản lý. Thời gian đó, ông biết đến Tây Nguyên chủ yếu qua chuyện kể từ một số người từng điền dã nơi này trở ra Hà Nội. Mãi cho đến đầu năm 1985, ông mới có dịp đến Gia Lai-Kon Tum nhân một liên hoan cồng chiêng được tổ chức tại Pleiku.

 Giáo sư Nguyễn Tấn Đắc và bà Kpă Hnhit-vợ ông Siu Luynh ở Plei Ơi (xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện). Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ
Giáo sư Nguyễn Tấn Đắc và bà Kpă Hnhit-vợ ông Siu Luynh ở Plei Ơi (xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện). Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ


Mấy tháng sau, một đêm, ông đang ngồi làm việc trong căn phòng tập thể thì có tiếng gõ cửa. Mở cửa, ông ngạc nhiên nhưng nhận ra ngay người bạn mới quen khi vào Gia Lai-Kon Tum lần đầu: ông Trịnh Kim Sung-Giám đốc Sở Văn hóa-Thông tin. Ông Sung ra Hà Nội kỳ này với nhiệm vụ mời GS. Nguyễn Tấn Đắc vào viết giúp cho ngành, cũng là giúp cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh một bản chiến lược văn hóa.

Nhiều năm sau, từ nội dung cơ bản của “chiến lược văn hóa” dành cho Gia Lai-Kon Tum, GS. Nguyễn Tấn Đắc đã mở rộng đề tài, bổ sung tư liệu và xuất bản thành sách “Văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2005). Cùng với tác phẩm “Truyện kể dân gian: Đọc bằng type và motif” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2001), đây là công trình giúp ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012.

Như nhiều nhà nghiên cứu khác, GS. Nguyễn Tấn Đắc bị hiện tượng Vua Lửa hấp dẫn ngay từ khi chưa đặt chân lên Tây Nguyên. Đến Gia Lai-Kon Tum thuở còn vô vàn khó khăn ấy, ông dành nhiều thời gian tìm hiểu về vị vua không ngai này.

Âm thầm làm việc, qua lại khu vực cư trú của các Vua Lửa nhiều năm liền nhưng ông không công bố thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu. Cuối năm 2012, ông xuất bản cuốn sách “Tôi gặp các Ơi”. Trong công trình dày gần 400 trang này, tác giả khẳng định: Trước nay, việc nhiều người gọi các Pơtao Apuih là Vua Lửa là một sự nhầm lẫn. Theo GS. Nguyễn Tấn Đắc, trên thực tế, người Jrai chỉ gọi họ là “Ơi” tức là “ông” mà thôi.

Cuốn “Tôi gặp các Ơi” của GS. Nguyễn Tấn Đắc gồm 6 phần. Trong đó, đáng kể nhất là những ghi chép, phỏng vấn điền dã kèm theo hình ảnh của tác giả khi gặp các Ơi và những người khác. Ghi chép đầu tiên của ông về các Ơi diễn ra ngày 19-7-1988 và ghi chép sau cùng vào ngày 15-12-1990, không kể thông tin từ những cuộc thăm viếng sau đó. Đây là những ghi chép rất chi tiết về mọi vấn đề của hiện tượng tín ngưỡng độc đáo này. Cho rằng mình chưa đủ sức giải mã, GS. Nguyễn Tấn Đắc cho biết, ông đã ghi chép tất cả những gì có thể, kể cả các việc mà nhiều người khi đó cho là hoang đường.

Đầu năm 2013, tôi cùng GS. Nguyễn Tấn Đắc trở lại vùng đất của các Ơi để tặng sách cho các nhân chứng. Trừ những người đã mất, tất cả bà con dân làng đều nhớ ông. Suốt những ngày ở Ayun Pa và Chư Sê, ông đã khóc rất nhiều và những người Jrai thân thiết gặp ông cũng không cầm được nước mắt.

Đó là chuyến đi về miền đất đầy kỷ niệm của một nhà nghiên cứu hiền lành, dễ cảm động nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ và quyết đoán trong khoa học. Chuyến đi ấy cũng giúp tôi hiểu thêm một khía cạnh khác trong tâm hồn người thầy của mình. Đó là sự thật thà, trong sáng của một vị giáo sư suốt đời chăm chú vào khoa học thuần túy.

Hôm đó, khi chúng tôi chuẩn bị đi tặng sách thì một nhóm làm phim tài liệu từ TP. Hồ Chí Minh cũng ngẫu nhiên đến Pleiku và đề nghị được theo cùng. Thế là bỗng nhiên, GS. Nguyễn Tấn Đắc và tôi thành nhân vật trong loạt phim chưa hề có kịch bản này.

Lúc chia tay, nhóm làm phim cảm ơn và vị đạo diễn nhỏ nhẹ nói lời cuối cùng: “Xin được gửi tặng GS. Nguyễn Tấn Đắc một chút tiền, cụ thể là 2 triệu đồng”. Nghe xong câu này, GS. Nguyễn Tấn Đắc tưởng đoàn phim đòi tiền công nên quay sang tôi thì thầm: “Gay rồi anh Tuệ ạ. Tôi tưởng họ quay miễn phí cho mình chứ. Nói thật là trong bóp tôi không đủ tiền”.

Giáo sư Nguyễn Xuân Kính-nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian đánh giá rất cao và xem GS. Nguyễn Tấn Đắc là nhà nghiên cứu mẫu mực, một chuyên gia hàng đầu về văn hóa dân gian Việt Nam. Với nhiều người ở Gia Lai, chỉ cần qua “Văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên” và “Tôi gặp các Ơi” đã có thể nhận ra tinh thần làm việc nghiêm túc, đầy trách nhiệm của GS. Nguyễn Tấn Đắc đối với mảnh đất, con người mà ông nặng lòng yêu quý.

Khi tôi viết những dòng này, GS. Nguyễn Tấn Đắc đã đi xa. Ông vừa rời cõi tạm vào ngày 29 Tết Tân Sửu ở tuổi 90.

 

NGUYỄN QUANG TUỆ

Có thể bạn quan tâm

Phát huy sức mạnh văn hóa

Phát huy sức mạnh văn hóa

Khi các giá trị văn hóa, di sản và nghệ thuật tạo ra lợi nhuận nó không chỉ tự “nuôi sống” mình mà còn góp phần tạo thêm những nguồn lực mới, tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp văn hóa.

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

null