Người lưu giữ ký ức làng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Câu chuyện kể ở một đám giỗ quê, đôi khi chứa đựng cả lịch sử một vùng đất và ký ức của một đời người, để những ai từng ngụp lặn trong quá khứ luôn thấy mắc nợ với xứ sở…
 

Tháng mười âm lịch, anh được mời về quê dự một đám giỗ người thân. Gia đình nông dân, tất cả con cháu nội ngoại có chừng hơn 50 người, cả trẻ con. Các cháu nội đóng góp tài chính, cháu ngoại mang về mấy hộp bánh, vài đòn chả, đôi ba ký thịt để cúng ông bà. Có cô cháu vẫn giữ nếp xưa của mẹ, từ hôm trước đã lo nấu một khay xôi đường mang về giỗ…

1. Bà của anh sinh năm 1900, mất đầu năm 1947, lúc ấy cha anh mới ngoài 20 tuổi và anh thì 5 năm sau mới ra đời. Anh không có ký ức gì về bà, chỉ được nghe kể lại vào những ngày giỗ kỵ. Nhưng anh nhớ. Dù những câu chuyện đã hơn 75 năm. Không chỉ là chuyện một người, một gia đình, mà là lịch sử cả một vùng đất phía bắc Quảng Nam…



 

 Làng trồng thuốc lá. Ảnh: T.Đ.T
Làng trồng thuốc lá. Ảnh: T.Đ.T



Bà là con gái đầu một gia đình nông dân, đông con ở làng La Thọ. Mười bảy tuổi đã giúp mẹ gánh trầu cau đi bán ở chợ Đông Quan, nay thuộc xã Điện Hòa, TX.Điện Bàn (Quảng Nam).

Năm nọ, bà chừng hai mươi, có người làng Thanh Quýt lên La Thọ thuê đất trồng thuốc lá. Họ vào nhà bà gửi gạo nấu cho bữa cơm trưa. Bà nhận lời giúp. Có hôm còn ra chợ mua giùm ít cá, rau cho họ. Người con trai mà sau này bà lấy làm chồng là anh chàng trẻ tuổi nhất trong những người trồng thuốc lá xa nhà…

Sau ngày đi làm dâu, bà vẫn ngày hai buổi chợ với gánh trầu cau cố hữu của mẹ để lại. Buổi sáng ở chợ vải Thanh Quýt và buổi chiều ở chợ Đông Quan, cách nhau hơn 4 cây số đường đi bộ. Chồng bà làm ruộng, cứ mỗi chiều tối lại chờ ở gốc đa bên ngôi chùa đầu làng để “rước” gánh hàng cho vợ.

Trên đường từ chợ, mỗi ngày bà tạt qua đầu làng La Thọ, gửi một gói cá, miếng thịt về cho cha mẹ đẻ. Tối, khi bà về đến nhà là lúc các bà con phía nhà chồng tụ tập đến. Họ thường gửi bà mua giùm những loại thực phẩm, mắm muối mà vì bận việc đồng áng họ không thể đến chợ. Còn bà thì hay nói: “Cứ để tôi (hay em, cháu) mua cho. Tui bán ở chợ quen rồi, nên không ai bán đắt đâu!”… Đã vậy, bà luôn vui vẻ, nên bên nhà chồng và bà con chòm xóm, ai cũng thương quý.

Đến cuối năm 1946, khi “Toàn quốc kháng chiến” theo lệnh của Việt Minh kêu gọi, bà đã sinh hạ đến 6 người con. Năm ấy cả làng Thanh Quýt đều đi tản cư, bỏ lại vườn không nhà trống. Trên đôi gánh của bà là hai đứa con nhỏ và một ít đồ dùng. Còn lại, chồng bà, vừa gánh đồ đạc gia đình vừa dắt những đứa con lớn bỏ làng ra đi. Đường tản cư thăm thẳm. Hết vượt sông Thu Bồn, qua H.Duy Xuyên lại tiếp Phú Cang, Thăng Bình, Hiệp Đức… Gửi con cái ở nhà những người dân sở tại, đứa lớn giữ đứa nhỏ. Bà lại ra chợ, gặp gì mua bán nấy. Vất vả trăm bề. Đói khát không kể xiết. Nhiều người chết đói, chết bệnh trên đường tản cư…


 

Sông Thanh Quýt, dẫn đến chợ vải, tư liệu năm 1967. Ảnh Tư liệu của T.Đ.T
Sông Thanh Quýt, dẫn đến chợ vải, tư liệu năm 1967. Ảnh Tư liệu của T.Đ.T


Đầu năm 1947, không chịu nổi đói khát, con nhỏ thiếu sữa phải uống nước cháo, quẹo quặt, gia đình bà quyết định quay về quê.

2. Làng Thanh Quýt là một làng cổ lớn, ước cũng có từ đầu thế kỷ 16, đất chật lại đông dân. Dân làng ngoài trồng lúa khoai, buôn bán nhỏ còn có nghề dệt vải và trồng thuốc lá.

Làng nằm ven sông và bên đường thiên lý. Qua sông Thanh Quýt dưới triều nhà Nguyễn vẫn chỉ bằng đò ngang, là những chiếc ghe đan bằng tre. Hồi Dương Văn An viết Ô châu cận lục (năm 1555), trong làng vẫn còn hàng chục di tích Chàm. Có vài tháp Chàm đã sụp đổ. Đến năm 1923, bác sĩ người Pháp là Albert Sallet còn ghi lại các dấu vết thờ cúng của người Chàm ở chùa làng, ở gò Giàng, miễu Ông Sỏi, bến Thờ Bà và cả một di tích có tên Vườm Chàm… Nhiều trò chơi dân gian như u mọi vẫn được trai tráng người Việt tiếp tục chơi cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. Người lớn tuổi vẫn quấn khăn trên đầu như người Chàm dưới thời Ngô Đình Diệm.

Đến thế kỷ 18, Lê Quý Đôn còn mô tả vải vóc bán ở cảng Trà Nhiêu (Hội An) phần lớn đến từ Phú Bông (Gò Nổi) và Kim Quất (tên cũ của làng Thanh Quýt).

Ở đình làng, phục dựng năm 2006, đại diện 7 tộc tiền hiền đã cho lập hai bàn thờ tổ nghề dệt vải và trồng thuốc lá của làng, kể cả chạm trổ hai phù điêu ở cổng tam quan… như một ký ức không phai và một lời tri ân tiền nhân thuở quy dân lập ấp.

Sau ngày hồi cư năm 1947, bà lại tiếp tục gánh trầu cau ngày hai buổi chợ như trước. Khắp làng, vì là nơi thị tứ, nên quân Pháp đã cho lập 5 cái đồn lính ven quốc lộ, khu Trảng Nhật và ven sông ở phía tây, cạnh làng Phong Lục Đông để án ngữ các đường giao thông huyết mạch, kiểm soát gắt gao nhằm ngăn chặn mọi hoạt động của Việt Minh trong vùng. Gánh trầu cau của bà cũng nhiều lần bị gọi lại và lục tung vì nghi ngờ trong đó có vũ khí hay truyền đơn của kháng chiến…


 

 Một di tích ở Thanh Quýt. Ảnh: T.Đ.T
Một di tích ở Thanh Quýt. Ảnh: T.Đ.T


Cái bến sông, nơi gần ngôi chùa làng và cây đa cổ thụ ngày nào ông hay đón bà để rước gánh trầu cau mỗi chiều, đã là bình địa sau chiến tranh. Chiến tranh kết thúc năm 1975, ngôi nhà của ông bà cũng bị đốt cháy như bao ngôi nhà khác trong làng, những hàng tre bụi chuối xanh tốt đã không còn dấu vết…

3. Con đông, đời sống cơ cực đã vật ngã bà vào tháng 10.1947. Đến năm 2022, tính ra là 75 năm đã trôi qua.

Mỗi lần giỗ bà, anh luôn nhớ lại lời kể của cha anh và những người lớn tuổi. Năm ấy, sau ngày hồi cư, chỉ trong nửa tháng, gia đình đã chịu 3 cái tang lớn: bà ra đi ngày mùng 3, cha bà ở làng La Thọ ngày mùng 6 và cha chồng bà ngày rằm tháng mười… Tang chồng tang, cả làng rưng rưng nước mắt!

Cha chồng bà, năm ấy đã ngoài 90, coi bà như con gái, ôm thi thể bà mà khóc: “Sao không để cha chết thay con, để con còn nuôi bầy con dại?”. Sau đó ông cho xẻ tấm phản gỗ dành cho hậu sự của mình, đóng áo quan cho con dâu. Đám tang con dâu vừa xong, ông lại xa biệt luôn ông sui gia trên làng La Thọ…

Hơn 10 ngày sau, ông té ngã lúc ra giếng xách nước và ra đi.

75 năm sau, làng Thanh Quýt đang chuẩn bị lên phường thuộc TX.Điện Bàn, anh về dự đám giỗ và kể lại bao nhiêu chuyện cũ cho các lớp em, con cháu. Một cái đám giỗ đậm chất truyền thống. Ngoài nghi thức cúng người đã khuất, con cháu ngồi lại, ăn bữa giỗ đạm bạc, không bia rượu và nhắc lại những ký ức cùng cuộc sống gian lao của tiền nhân chưa đầy thế kỷ trước…

Những kỷ niệm rời rạc, chắp vá, có khi là thiếu sót vài chi tiết quan trọng ấy, mà đứa cháu anh bảo chẳng khác nào chuyện cổ tích, lại cũng là một bức tranh sống động, cảm động về một người, về những người và một vùng đất đã nuôi anh lớn khôn. Để anh tự nghĩ rằng, mình luôn còn mắc nợ!

Theo Trương Điện Thắng (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Theo chân thợ săn mật ong đất

Theo chân thợ săn mật ong đất

(GLO)- Giữa bạt ngàn núi rừng với vô vàn âm thanh hỗn tạp nhưng những thanh niên làng Kênh (xã Nghĩa Hòa, huyện Chư Păh) lại có cách đặc biệt để phát hiện tổ ong đất, đó là dõi theo cánh ong bay và tiếng vo ve phát ra từ đôi cánh.

"Gieo chữ" giữa trùng khơi

"Gieo chữ" giữa trùng khơi

Giữa mênh mông trùng khơi, nơi tiền đồn Tổ quốc, những ngôi trường khang trang, vững chãi trên các đảo thuộc huyện Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa) vẫn ngày ngày vang vọng tiếng ê a của học trò.

Giữ vị chè Truồi

Giữ vị chè Truồi

Làng Truồi (đoạn thuộc xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, thành phố Huế), bát nước chè trong veo chứa đựng từng giọt tinh túy của đất trời. Không để hương vị đặc trưng của chè Truồi bị lãng quên, các nông hộ nơi đây đang mở ra hướng đi đột phá cho loại đặc sản này.

Tái chế đến tái sinh

Tái chế đến tái sinh

Tại một xưởng nhỏ nằm sâu trong vùng ngoại ô Bình Định, tiếng nói cười rộn ràng luôn tràn ngập giữa không gian xanh mát của cây trái tạo nên một không khí đầy sức sống.

Ánh sáng về làng Canh Tiến

Ánh sáng về làng Canh Tiến

Suốt nhiều năm chìm trong bóng tối của cách trở và thiếu thốn, làng Canh Tiến (xã Canh Liên, huyện Vân Canh) từng là một trong những "vùng trắng" điện lưới hiếm hoi còn sót lại ở Bình Định.

Ngược dòng Thác Ma

Ngược dòng Thác Ma

Sông Thác Ma, tên gọi dân dã của một nhánh nhỏ hợp lưu với sông Ô Lâu, bắt nguồn từ vùng rừng phía Tây huyện Hải Lăng (Quảng Trị), xuôi qua các làng Khe Mương, Trầm, Tân Điền, Cồn Tàu - xã Hải Sơn, rồi đổ về Hải Chánh, hòa vào sông lớn.