Ngọn đèn dầu quê...

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Làng quê tôi nằm bên dòng Lam của quê hương xứ Nghệ. Một bãi sa bồi chạy dài hàng cây số là thiên đường tuổi nhỏ tuổi thơ tôi.

 Dưới ngọn đèn dầu này, chúng tôi ngồi học bài say mê. Bao chân trời mở ra qua những trang sách đời, trang sách cuộc sống… Ảnh: Trịnh Hiệp
Dưới ngọn đèn dầu này, chúng tôi ngồi học bài say mê. Bao chân trời mở ra qua những trang sách đời, trang sách cuộc sống… Ảnh: Trịnh Hiệp


Trốn mẹ đi câu cá, đào dế, đuổi bắt châu chấu, cào cào, đá bóng bưởi... là đủ thứ trò chơi của tuổi thần tiên.

Thuở ấy, vào thập niên 60 của thế kỷ 20, tôi vào học lớp vỡ lòng trước khi vào lớp một. Những bài học tuổi thơ, qua bao nhiêu năm, vẫn còn ghi dấu ấn đến bây giờ: “Có dây bìm bìm/ Leo trên bờ giậu/ Bướm vàng đến đậu / Hoa tím rung rinh”.

Học nhẹ nhàng nên chúng tôi có nhiều thời gian chạy nhảy, vui chơi và vui nhất là giúp mẹ, giúp bà làm nhiều công việc vừa sức, trong đó có công việc làm dầu thắp sáng.

Dầu lửa dùng thắp đèn vô cùng khan hiếm, có thể nói là không có ở quê tôi thuở bấy giờ! Nhà nhà đều thắp đèn bằng dầu tự làm, cũng không mua được dầu ngoài chợ vì không có ai bán!

Những ngày nghỉ học, tôi theo chân các anh chị cùng các em đi dọc bờ sông Lam vào cuối thu. Thời khắc này, thầu dầu tía đã chín rụng quanh gốc; phải nói là bạt ngàn thầu dầu. Từ đâu trên nguồn, giống cây thầu dầu tía (quê tôi gọi là cây dầu vét) được phù sa đưa về và mọc lên thành rừng ven bãi sông.

Những trái thầu dầu tía to gần bằng ngón chân cái có từ bốn đến năm hạt nhỏ, lớn gần bằng hạt mãng cầu, khi chín màu đen bóng. Mang về nhà, đem phơi nắng trái thầu dầu chừng vài ba hôm là nó tự tách ra hạt.

Từ nhà nhìn ra ngay giữa đồng, không biết tự bao giờ có hai cây dầu sơn sừng sững. Vào cuối thu, trái bắt đầu chín và rụng. Chúng tôi phải thức dậy thật sớm, chạy ào ra giành nhau lượm trái rụng quanh gốc. Trái dầu sơn to gần bằng nắm tay, trong ruột có từ ba đến bốn hạt màu xám như hạt gấc…

Khi các nguyên liệu đã khô (hạt thầu dầu tía, hạt dầu sơn, hạt bưởi…), mẹ đem tất cả lên rang chín. Khi chín vàng, mẹ đổ ra và chúng tôi giúp mẹ giã càng nhỏ càng tốt. Một mùi thơm quyến rũ tỏa lan xung quanh. Không ăn được nhân các hạt này đâu, vì chúng rất độc!

Tiếp theo công đoạn “chế biến dầu” là đem nguyên liệu đã giã nhỏ này đun trên bếp cùng với nước. Đun nhỏ lửa ban đầu, khi sôi tăm thì đun tiếp. Chúng tôi ngồi quanh bếp để tận mắt “chứng kiến” những “mẻ dầu” ra đời như thế nào!

Lúc này, váng dầu đã nổi lên phía trên. Mẹ cầm cái môi (dụng cụ làm bếp) vớt nhẹ và đổ vào cái hũ bên cạnh. Cứ thế, nồi càng sôi thì dầu càng nổi nhiều, đến khi lên khói nhạt trắng thì hết. Hũ dầu có một màu vàng sóng sánh, thoang thoảng mùi thơm dễ chịu.

Bây giờ đến “công đoạn” làm bấc đèn! Ra đồng, lựa những thân cỏ ống già, lấy cây đũa thụt vào thì đầu kia ra một đoạn ruột trắng. Đem phơi lên cho khô dùng dần. Bấc cỏ cháy đều và rất nhẹ. Vì thế, cụ Nguyễn Du mới có câu Kiều mà mẹ thường hay ngâm: “Nhẹ như bấc, nặng như chì/ Gỡ ra cho được còn gì là duyên” là thế.

Khi màn đêm xuống, mẹ đem chiếc đèn là chiếc đĩa nhỏ, làm bằng gốm được treo lên cái giá nhỏ. Mẹ rót dầu vào và thả tim vào cho dầu thấm. Đầu bấc được khêu lên và mẹ châm lửa. Một làn khói mỏng bay lên với vừng sáng tỏa xung quanh cùng lan tỏa mùi dầu thơm thơm, lâng lâng đến lạ.


Thuở ấy, bố tôi công tác xa nhà. Nơi lâm trường Tân Kỳ cách nhà chừng bốn mươi cây số. Vài chủ nhật bố lại đi xe đạp về thăm nhà. Có những khi đèn cháy đượm, ngồi cùng bà tẽ ngô, đầu bấc dầu nở ra những nụ đỏ thật đẹp. Bà nói: “Bố mày sắp về thăm nhà đấy! Coi hoa đèn kìa! “Thứ nhất đom đóm vào nhà/ Thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn”.

Dưới ngọn đèn dầu này, chúng tôi ngồi học bài say mê. Bao chân trời mở ra qua những trang sách đời, trang sách cuộc sống… Chắc ngày xưa, bao ông nghè ông cống cũng từng ngồi “sôi kinh nấu sử” bên ngọn đèn dầu quê!

Những năm chiến tranh, bom đạn đêm ngày; cơm độn ngô khoai, thiếu thốn trăm bề nhưng ngọn đèn dầu quê không bao giờ biết tắt! Ngọn đèn nhỏ cháy bừng lặng lẽ như thầm nhắc nhở, động viên chúng tôi học hành chăm chỉ, cần cù, biết vượt lên, biết cháy lên để mà tỏa sáng.


 

 


Theo Lê Đức Đồng (Thanh Niên Online)

Có thể bạn quan tâm

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

(GLO)- Đó là phát biểu của Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Châu Ngọc Tuấn tại hội nghị tổng kết 50 năm nền văn học nghệ thuật tỉnh Gia Lai sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) diễn ra vào sáng 23-4 tại Hội trường 2-9 (TP. Pleiku).

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

(GLO)- Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam có nhiều ca khúc không chỉ đơn thuần là tác phẩm nghệ thuật mà còn là biểu tượng của một vùng quê. Nơi ấy, tình yêu và nỗi nhớ không thể phai mờ. “Ngọn lửa cao nguyên” của nhạc sĩ Trần Tiến chính là một trong những ca khúc như thế.

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

(GLO)- “Dáng vẻ của một người yên lặng đọc sách khá giống với những gì tôi cảm thấy khi nghĩ về một người đang trưởng thành trong lặng lẽ”-đó là cảm nhận của chị Trần Thị Kim Phùng Thủy-Trưởng ban Điều hành dự án “Văn hóa đọc Gia Lai” về giá trị sâu bền mà sách mang lại.

Thơ Lenguyen: Mùa qua phố

Thơ Lenguyen: Mùa qua phố

(GLO)- Bài thơ "Mùa qua phố" của tác giả Lenguyen là một bức tranh dịu dàng, gợi cảm xúc, đưa người đọc bước vào không gian phố núi Pleiku trong thời khắc chuyển mùa. Với giọng điệu lãng mạn và sâu lắng, bài thơ khơi gợi vẻ đẹp bình dị nhưng đầy chất thơ của phố núi...

Con đường tất yếu

Con đường tất yếu

Vài năm trở lại đây, các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật Việt đã được khai thác với tinh thần mới: vừa trân trọng truyền thống, vừa dấn thân khai phá cái mới.