Mùa rươi, không phải ai cũng biết

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Tháng 9 đến tháng 11 âm lịch hàng năm, khi ruộng đồng đã thu hoạch xong cũng là thời điểm người dân sống dọc bãi bồi sông Lam bước vào một vụ mùa đặc biệt - mùa rươi.

Bài 1: Chờ “lộc” đùn lên từ đất

Vào mùa rươi, người dân xã Châu Nhân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An lại tất bật đóng cọc, giăng lưới, đắp bờ quanh các thửa ruộng, vừa để “đánh dấu lãnh thổ”, vừa ngăn rươi sang ruộng nhà khác. Khi màn đêm buông xuống, cánh đồng được thắp sáng bởi ánh đèn pin.

Công phu

Từ độ tháng 9 âm lịch, người dân xã Châu Nhân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An lại mang lưới, cọc tre ra rào quanh ruộng, dùng bùn đất đắp kỹ chân lưới, sẵn sàng chờ rươi “mọc”. Nghề vớt rươi có từ bao giờ, người dân nơi đây chẳng ai biết. Chỉ biết rằng loại vật thân mềm đỏ au như con giun đất này đã cùng họ trải qua bao nhiêu bữa cơm ngày mưa dầm gió bấc. Hồi ấy, ai vớt được bao nhiêu thì vớt, không chia ruộng và giăng lưới như bây giờ. Vào mùa, bà con thường tranh thủ dùng rổ, lưới đi vớt rươi về chế biến những món ăn hay bán ở các chợ quê. Từ khi loài động vật thân mềm này trở thành đặc sản, là món hàng có giá trị kinh tế cao, việc thu hoạch rươi cũng không còn mang tính tự phát như trước mà người dân đã có sự tính toán, đầu tư hơn.

Trên những cánh đồng thuộc xã Châu Nhân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An người dân đã giăng lưới sẵn sàng chờ săn “lộc trời”.

Trên những cánh đồng thuộc xã Châu Nhân, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An người dân đã giăng lưới sẵn sàng chờ săn “lộc trời”.

Ông Phạm Văn Vị (58 tuổi, trú xóm Phú Xuân, xã Châu Nhân) có hơn 5 sào ruộng nhưng chỉ 2 sào có rươi. Trước khi giăng lưới, ông đã cày bừa kỹ ruộng rươi. Theo kinh nghiệm săn rươi, thửa ruộng nào có nhiều những lỗ nhỏ như đầu đũa ở trên mặt ruộng, thì ruộng đó nhiều rươi. “Lưới khoanh rươi thường được giăng trên ruộng tầm 2 - 3 tháng. Đầu vụ rươi, đưa lưới đi giăng, cuối vụ rươi thu lưới về cất. Trung bình mỗi sào ruộng cần hơn 10 kg lưới. Tùy từng loại lưới có giá khác nhau, dao động từ 7.000 - 12.000 đồng/kg. Sau khi giăng lưới, tôi thường lấy đất lấp kín chân lưới, đảm bảo lưới không bị nổi, hở khi nước sông dâng, rươi không thể ra ngoài”, ông Vị chia sẻ.

Ông Phạm Văn Vị giăng lưới ngoài ruộng để đón rươi.

Ông Phạm Văn Vị giăng lưới ngoài ruộng để đón rươi.

Lão nông gần 60 tuổi này cho biết, trước đây, khi rươi còn rẻ, mọi người thắp đèn đi vớt rươi tự do trên ruộng. Từ ngày rươi trở thành đặc sản, giá cả đắt đỏ, có thời điểm nửa triệu đồng/kg, nhà ai có ruộng đều mua lưới về khoanh, vừa để “đánh dấu lãnh thổ”, vừa ngăn rươi sang ruộng nhà khác. “Nhà tôi có 2 sào ruộng rươi, phải dùng hơn 20kg lưới để giăng. Do lưới năm ngoái bị hư nhiều nên năm nay gia đình phải mua mới để vá bù vào. Mỗi cuộn lưới trước khi chở ra đồng thường được gắn thêm những cọc tre cao hơn chiều rộng của lưới, một đầu vót nhọn, để găm xuống ruộng nhằm giữ lưới căng”, ông Vị nói.

Bà Nguyệt lấy đất lấp kín chân lưới, đảm bảo lưới không bị nổi, hở khi nước dâng, rươi không thể ra ngoài.

Bà Nguyệt lấy đất lấp kín chân lưới, đảm bảo lưới không bị nổi, hở khi nước dâng, rươi không thể ra ngoài.

Phần lớn ruộng rươi ven sông Lam đều thấp, lúc nước thủy triều dâng thường ngập hết bờ, do đó bà con phải mua lưới cao tầm 1,2m trở lên để giăng quanh bờ. Ở những chân ruộng đã khô cạn, việc đóng cọc, giăng lưới khá sạch sẽ, nhưng khó khăn trong việc lấp chân lưới. Quanh bờ ruộng, cứ 1,5 - 2m, người dân lại đóng một cọc giữ lưới. Với những thửa ruộng bùn, sau khi đóng cọc, giăng lưới, bà con chỉ việc bốc bùn bịt chân lưới. Để có thể thu hoạch được rươi, người dân thường rào quanh ruộng của mình bằng lưới, đào “trẹm” dẫn nước từ ngoài sông vào ruộng để rươi “mọc” và tháo nước khi rươi nổi nhiều. Rươi theo dòng chảy tụ vào hố nước trước cửa “trẹm”, người dân chỉ cần lấy vợt để xúc. “Nhà tôi làm 3 sào ruộng rươi, phải dùng khoảng 40kg lưới để giăng. Lưới năm ngoái bị rách nhiều nên năm nay tôi mua hẳn một cuộn lưới to, cần đến đâu thì dùng đến đó. Ngoài đóng cọc đứng, tôi còn dựng cọc nghiêng đề phòng gió thổi tạt đổ lưới khi nước triều dâng cao, hay có mưa to gió mạnh”, anh Nguyễn Văn Hòa (35 tuổi, trú xóm 7, xã Châu Nhân) vừa giăng lưới vừa cho hay.

Đỏ mắt chờ đất “mọc lộc”

“Mà” rươi dày đặc báo hiệu rươi sắp “mọc”.

“Mà” rươi dày đặc báo hiệu rươi sắp “mọc”.

Mùa rươi thường bắt đầu từ tháng 9 kéo dài đến tháng 11 âm lịch. Rươi “mọc” theo kỳ trăng, mỗi tháng 2 lần, vào đầu và giữa tháng. Rươi được xem là “lộc đất”, lộc vào ruộng ai, người ấy hưởng. Cả cánh đồng rộng lớn không phải ruộng nào cũng có rươi. Dù hên xui nhưng nhà nào cũng chuẩn bị kỹ cho mùa đón “lộc”. Rươi là loài khó tính nên ruộng phải sạch, cày bừa kỹ. Do đó, vào mùa lúa, người dân ở đây hầu như không sử dụng thuốc trừ sâu để giữ cho đất sạch. “Sau khi thu hoạch lúa, ruộng được cày bừa thật nhuyễn, bón phân chuồng đã ủ kỹ cho hoai mục để chuẩn bị thức ăn cho rươi. Cũng không biết đúng hay sai nhưng ông cha truyền lại, ruộng bón phân sẽ nuôi rươi béo mập, năng suất và chất lượng hơn”, bà Nguyễn Thị Nguyệt (60 tuổi, trú xóm Phú Xuân, xã Châu Nhân) chia sẻ.

Người phụ nữ này cho biết, nếu như các năm trước, tầm cuối tháng 8 âm lịch đã bắt đầu có rươi “mọc” thì nay đã qua tháng 10, rươi vẫn chưa xuất hiện. Bà Nguyệt cũng như hàng trăm hộ dân ở đây đang đỏ mắt chờ rươi, bởi đây là nguồn thu nhập chính của họ, hiệu quả cao hơn nhiều lần so với trồng lúa. “Người dân ở đây trồng lúa thì chỉ đủ ăn thôi, cả năm trông mong hết vào mùa rươi. Năm ngoái, có đêm hai vợ chồng tôi thu được gần tạ rươi, bán được gần 5 triệu đồng. Mấy năm gần đây không hiểu là do môi trường, nguồn nước ô nhiễm hay sao mà năng suất rươi không được như trước kia. Rươi là giống tự nhiên hoàn toàn, chưa nuôi được nên được nhiều hay ít thì phải chờ trời thôi”, bà Nguyệt bày tỏ.

Chỉ vào những lỗ nhỏ chi chít mặt đất, bà Nguyệt giảng giải: “Đây là “mà” rươi. Thửa ruộng nào lắm “mà” rươi, tức là những cái lỗ nhỏ như đầu đũa ở trên mặt ruộng, thì ruộng đó nhiều rươi. Ruộng càng nhiều “mà” thì càng trúng rươi. Khi nước vào thì rươi chui lên từ những cái lỗ này”. Nói rồi, bà Nguyệt đi quanh ruộng kiểm tra một lượt cuối rồi lên bờ. Người phụ nữ này cho biết, tháng 11 âm lịch, rươi mọc nhiều nhất và đến tháng Chạp thì hết. Vào thời gian này, ai nấy đều thay nhau trực rươi, canh rươi và đánh bắt rươi. Khi màn đêm buông xuống, đồng ruộng lại như sáng bừng lên bởi ánh đèn pin... “Có hôm chờ mãi không thấy, tôi bỏ về nhà. Vừa về đến cổng nhà, nghe hàng xóm gọi “rươi mọc rồi”, lại lật đà lật đật mang xô, chậu chạy ra. Có những đêm, mưa rét căm căm, đội mưa ngồi bên bờ ruộng chờ. Đợi mãi không thấy rươi lên, có người chán quá bỏ về ngủ. Sáng mai dậy nghe hàng xóm “khoe” chiến tích vớt được cả chục ký lô. Tiếc đứt ruột”, bà Nguyệt tâm sự.

(còn nữa)

Thời điểm rươi “mọc”, cánh đồng vui như hội, nhấp nhánh những ánh đèn đi vớt “lộc trời”. Rươi thu hoạch đến đâu sẽ được thương lái, các chủ nhà hàng đặc sản vào cân mua tận ruộng. Tùy từng năm giá rươi lên xuống, nhưng bình quân thường ở mức 350.000 - 400.000 đồng/kg, có năm lên đến 500.000 đồng/kg. Có những hộ dân may mắn có thể kiếm được 5-7 triệu đồng mỗi đêm.

Có thể bạn quan tâm

Hun hút giữa mây ngàn

Hun hút giữa mây ngàn

Bám trường lớp ở những nóc heo hút, nhiều thầy cô giáo gần như gởi cả thanh xuân theo cuộc hành trình. Đầu tuần, những người trẻ lầm lụi ôm ba lô ngược núi. Họ như mất hút cho tới cuối tuần, mới có thể ra nơi có sóng điện thoại.

Lão nông cả đời bảo tồn cá quý trên dòng Mê Kông

Lão nông cả đời bảo tồn cá quý trên dòng Mê Kông

Sông Mê Kông đang ngày càng cạn kiệt về các loài cá quý hiếm. Ông Bảy Bon - lão nông ở Cần Thơ trên dòng sông Hậu dành gần cả đời sưu tầm và bảo tồn các loài cá quý với hy vọng chúng sẽ không biến mất. Kết hợp du lịch, ông đã tạo nên một điểm đến hấp dẫn mỗi khi khách đến cồn Sơn của TP Cần Thơ.

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Sau gần 30 năm đưa vào sử dụng, điểm trường Phú Quý thuộc Trường Tiểu học số 2 Bình Châu (xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) hiện xuống cấp nghiêm trọng, tường bong tróc, nứt toác… chờ sập. Hàng trăm học sinh và giáo viên thấp thỏm, lo âu vừa học vừa run.

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Dành trọn đam mê trong phòng thí nghiệm, chắt chiu trong từng thí nghiệm, TS. Phạm Thanh Tuấn Anh, SN 1992, Phó trưởng phòng Phòng thí nghiệm Vật liệu Kỹ thuật cao, Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG HCM), đã gặt hái nhiều thành tựu trong lĩnh vực công nghệ vật liệu mới.